
Nhóm tin
Việt Nam với sự phát triển của ASEAN: 10 năm nhìn lại
06/08/2010 - 395 Lượt xem
Tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử to lớn của sự kiện Việt Nam tham gia ASEAN đã được chính các nhà lãnh đạo ASEAN 6 thừa nhận. Trong bài phát biểu chúc mừng tại lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN ngày 28-7-1995, Bộ trưởng Ngoại giao In-đô-nê-xi-a, ông A-li A-la-tát đã nhấn mạnh: "Chúng ta vừa chứng kiến một sự kiện trọng đại trong biên niên sử của ASEAN. Việc kết nạp Việt Nam vào gia đình ASEAN có ý nghĩa to lớn hơn nhiều, chứ không phải chỉ là việc tăng số lượng thành viên từ 6 lên 7"... " Việt Nam sẽ là một thành viên quý giá của ASEAN. Nền văn hóa và lịch sử của Việt Nam sẽ làm phong phú thêm di sản chung của chúng ta. Dân số 72 triệu người của Việt Nam sẽ tạo ra động lực để tăng cường vai trò và ảnh hưởng quốc tế của ASEAN." (1)
Mười năm đã trôi qua, kể từ khi lá cờ Việt Nam được long trọng kéo lên tại Thủ đô Ban-đa Xê-ri Bê-ga-oan của Bru-nây, khoảng thời gian tuy không dài, nhưng cũng đủ để đánh giá những đóng góp của Việt Nam đối với sự phát triển của ASEAN.
I - NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM TRONG 10 NĂM THAM GIA ASEAN
1 - Thúc đẩy tiến trình thống nhất Đông - Nam Á trong một tổ chức hợp tác khu vực chung
Trước khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Đông - Nam Á đang bị phân chia thành hai khối quốc gia đối lập. Một là, ASEAN đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Hai là, Đông Dương phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Sự tồn tại của hai nhóm nước Đông - Nam Á đối lập về hệ tư tưởng, chính trị, kinh tế - xã hội trong một Đông - Nam Á về địa lý, không chỉ ngăn cản các nước trong khu vực phát triển quan hệ hòa bình, cùng phát triển, mà còn tạo cơ hội cho các thế lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của khu vực.
Trong bối cảnh như vậy, việc Việt Nam tham gia vào ASEAN đã mở ra triển vọng thống nhất Đông - Nam Á. ASEAN đã chứng tỏ khả năng dung nạp các quốc gia có chế độ chính trị, hệ tư tưởng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Những lợi ích chính trị mà Việt Nam nhận được từ tư cách thành viên ASEAN đã khích lệ các nước còn lại ở Đông - Nam Á như Lào, Mi-an-ma, Cam-pu-chia vững tâm tham gia vào Hiệp hội.
2 - Tích cực tham gia vào các chương trình hợp tác khu vực và quốc tế của ASEAN.
Để thích ứng với môi trường kinh tế - chính trị đang thay đổi trên thế giới và trong khu vực thời kỳ hậu "chiến tranh lạnh", Hội nghị cấp cao ASEAN 4 họp ở Xin-ga-po tháng 1-1992 đã quyết định thành lập Khu mậu dịch ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm, bắt đầu từ 1-1-1993 đến 1-1-2008. Với quyết định này, hợp tác kinh tế của ASEAN đã được nâng lên một bình diện mới, mở đầu cho tiến trình hội nhập kinh tế khu vực. Đây là một quyết định rất táo bạo của các nhà lãnh đạo ASEAN khi một phần chủ quyền về kinh tế quốc gia bị chia sẻ vì lợi ích chung của toàn khu vực, điều mà trước đó rất khó chấp nhận đối với đại đa số các nước ASEAN 6.
Về phương diện chính trị - an ninh, sự phát triển của ASEAN được đánh dấu bằng quyết định đưa hợp tác an ninh vào chương trình nghị sự. Tháng 7-1994, ASEAN đã tuyên bố thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN nhằm thúc đẩy hợp tác an ninh giữa ASEAN với các cường quốc trên thế giới và các nước châu Á - Thái Bình Dương có liên quan.
Những phát triển trên của ASEAN trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đặt ra cho Việt Nam hàng loạt thách thức lớn: Nước ta là nước có trình độ phát triển kinh tế thấp nhất trong ASEAN 7. Để được kết nạp vào ASEAN, nước ta cũng như các nước thành viên mới sau này, đều phải cam kết tham gia vào tiến trình AFTA, trong khi các nước thành viên cũ đã ít nhiều có kinh nghiệm về hội nhập kinh tế khu vực. Không những thế, Việt Nam có chế độ chính trị và hệ tư tưởng khác với các nước ASEAN 6. Những khác biệt này có thể dẫn tới những nhận thức khác nhau về các vấn đề khu vực và quốc tế. Chưa kể đến sự tác động của các hoạt động chia rẽ Việt Nam với các nước thành viên khác của ASEAN do một số thế lực trong và ngoài khu vực tiến hành, gây không ít khó khăn cho quá trình hội nhập khu vực của Việt Nam.
Hiểu rõ những khó khăn và thách thức trên, với quyết tâm hội nhập ASEAN, Việt Nam đã quyết định tham gia vào hầu hết các chương trình hợp tác trong khu vực và quốc tế của Hiệp hội. Các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu rằng sự tham gia của Việt Nam vào các chương trình đó không chỉ vì lợi ích quốc gia, mà còn vì sự ổn định và phát triển của Đông - Nam Á.
a - Liên kết trong khu vực
Với nhận thức như vậy, ngay từ khi mới là quan sát viên của ASEAN, nước ta đã cam kết tham gia vào AFTA với việc thực hiện Hiệp định về lộ trình CEPT cho AFTA vào ngày 1-1-1996 trên cơ sở những cam kết đã được thỏa thuận. Sau đó, khi được kết nạp vào ASEAN, nước ta đã tích cực chuẩn bị để có thể triển khai AFTA theo đúng hạn định.
Sau hơn 8 năm thực hiện giảm thuế theo CEPT, Việt Nam đã cắt giảm thuế cho 10.143 mặt hàng, chiếm 95% tổng số dòng thuế của nước ta, trong đó 74% dòng thuế đã đạt mức 0% - 5% (2). Cùng với việc giảm thuế, Bộ Thương mại phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng lộ trình cắt giảm định lượng và hàng rào phi thuế quan. Trong lĩnh vực hải quan, nước ta đã công bố hành lang xanh, trong đó chủ trương dành ưu tiên cho các sản phẩm thuộc diện CEPT và hành khách qua sân bay quốc tế. Ngoài AFTA, Việt Nam còn tham gia vào chương trình Hợp tác Công nghiệp của ASEAN (AICO) và Khu vực đầu tư ASEAN (AIA).
Về hợp tác tài chính, nước ta đã cùng với các nước ASEAN xây dựng và thông qua Chương trình hợp tác tài chính giai đoạn 1999 - 2004 (WP). Trong chương trình này, Việt Nam được giao chủ trì lĩnh vực hợp tác thứ 8 về "thuế và tài chính công". Nước ta cũng tích cực tham gia vào quá trình đàm phán xây dựng các hiệp định vận tải, quá cảnh; các đề án nghiên cứu khả thi và tổ chức các hội nghị, hội thảo liên quan tới việc triển khai dự án.
Về hợp tác chính trị - an ninh, nước ta đã tham gia vào Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) ngay từ hội nghị đầu tiên (tháng 7-1994) và trở thành một trong 18 nước thành viên sáng lập.
Vào thời điểm Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch ARF (2000 - 2001), ARF đang đứng trước những vấn đề nan giải: do các nước thành viên quá đa dạng về chế độ chính trị, cách tiếp cận về an ninh, nên những thành tựu hợp tác của ARF còn hạn chế. Trong bối cảnh như vậy, một số nước thành viên phương Tây của ARF như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Ôt-xtrây-li-a... muốn thúc đẩy nhanh tiến trình bằng cách chuyển sang giai đoạn 2 của tiến trình 3 giai đoạn (xây dựng lòng tin - ngoại giao phòng ngừa - giải quyết xung đột). Trong khi đó, các nước thành viên khác như Trung Quốc và ASEAN lại muốn làm sâu sắc hơn giai đoạn xây dựng lòng tin và phản đối việc thể chế hóa ARF. Đối với vấn đề trên, quan điểm của Việt Nam là ARF cần tuân thủ phương châm đã được nhất trí thông qua, đó là: "tiến triển dần dần, duy trì đối thoại, tránh gây đối đầu, tạo sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, phù hợp với tính đa dạng của khu vực. Nhất thiết cần tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đó chính là chìa khóa để tiến trình ARF đi đúng hướng và có thể đạt tới mục tiêu của mình là đảm bảo hòa bình, ổn định trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương" (3). Quan điểm trên đã được nhiều nước thành viên khác của ARF chia sẻ. Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia xuất bản tài liệu Quang cảnh An ninh hằng năm (Annual Security Outlook - ASO) trên cơ sở tự nguyện (4). Đây là hoạt động nhằm tăng cường niềm tin, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước thành viên của ARF. Trong cuốn ASO 2001 do Việt Nam xuất bản, sau khi phân tích các nhân tố gây bất ổn định ở Đông - Nam Á trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Bộ Ngoại giao nước ta đã nêu bật những đóng góp của Việt Nam đối với an ninh và ổn định trong khu vực. Đó là: tích cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác đa phương như Hội nghị Thượng đỉnh thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, Hội nghị Thượng đỉnh Nam - Nam...; cải thiện và tăng cường quan hệ hợp tác với các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ; cải thiện quan hệ với Mỹ, EU và Nhật Bản...
Về hợp tác khoa học, công nghệ (5), Việt Nam cũng có những đóng góp đáng kể. Cho tới nay, nước ta đã tham gia vào hàng chục dự án hợp tác khoa học, công nghệ của ASEAN. Một trong những đóng góp đó của Việt Nam là tổ chức Tuần lễ khoa học, công nghệ ASEAN 5 tại Hà Nội và Hội nghị Bộ trưởng khoa học, công nghệ ASEAN. Nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học, công nghệ của ASEAN, nước ta đã đưa ra sáng kiến thành lập Trung tâm công nghệ ASEAN tại Việt Nam. Sáng kiến này đã trở thành một trong những dự án chung của Hiệp hội.
Hợp tác Việt Nam - ASEAN trong lĩnh vực đào tạo và giáo dục cũng được thúc đẩy mạnh mẽ. Ngay từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã xem việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông - Nam Á là một ưu tiên. Thực hiện chủ trương đó, tháng 2-1990, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức gia nhập tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông - Nam Á (SEAMEO). Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã được công nhận là thành viên của Tiểu ban Giáo dục của ASEAN (ASCOE).
Các hoạt động phong phú và có hiệu quả của Việt Nam từ khi tham gia ASEAN đã thể hiện rõ thiện chí và năng lực của nước ta trong việc tham gia giải quyết những vấn đề chung của khu vực. Chính vì thế, Việt Nam đã được Hiệp hội tin tưởng giao nhiệm vụ tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 6 tại Hà Nội trong 2 ngày 15 và 16-12-1998. Dưới sự chủ tọa của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Hà Nội, Chương trình hành động Hà Nội và nhiều văn kiện quan trọng khác nhằm hiện thực hóa "Tầm nhìn ASEAN năm 2020" (6). Tại hội nghị này, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí kết nạp Cam-pu-chia là thành viên thứ 10 của Hiệp hội.
Thành công của Hội nghị ASEAN 6 một lần nữa khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của Việt Nam ở Đông - Nam Á
b - Hợp tác quốc tế
Cùng với việc tham gia vào các chương trình hợp tác nội bộ, nước ta còn tham gia vào các quan hệ hợp tác quốc tế của ASEAN như đã hoàn thành tốt vai trò điều phối viên của ASEAN trong quan hệ với Cộng hòa Niu Di-lân, Cộng hòa Liên bang Nga, Nhật Bản...
Đặc biệt, trong thời gian là điều phối viên ASEM (2000 - 2002, 2002 - 2004), Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5) tại Hà Nội vào tháng 10-2004.
Để tổ chức Hội nghị ASEM 5 theo đúng lịch trình và đạt được các mục tiêu đã đề ra (7), Việt Nam đã phải vượt qua những thách thức rất lớn. Một trong những thách thức đó là vấn đề Mi-an-ma. Việt Nam, với sự ủng hộ của Nhật Bản, một điều phối viên châu Á khác của ASEM, đã tìm ra được giải pháp trung hòa giữa hai lập trường cứng rắn với một bên là các nước thành viên ASEM ở châu Âu phản đối kịch liệt việc Mi-an-ma tham gia vào ASEM, và một bên là các nước thành viên ASEM ở châu Á không khoan nhượng với lập trường trên của châu Âu. Vậy giải pháp đưa ra là: Mi-an-ma sẽ được kết nạp vào ASEM cùng với 12 nước khác. Tuy nhiên nước này sẽ không tham dự ASEM 5 ở cấp cao nhất. Việc tìm ra giải pháp trên đã giúp phá vỡ sự bế tắc tưởng như không vượt qua nổi trong quá trình mở rộng ASEM.
Thách thức lớn thứ hai mà Việt Nam phải đối diện khi tổ chức ASEM 5 là phải tìm ra các biện pháp nhằm làm cho tiến trình ASEM trở nên sống động hơn, thực chất hơn. Sau 7 năm tồn tại với rất nhiều hoạt động khác nhau trên mọi lĩnh vực, ASEM chưa đưa lại kết quả như mong muốn. Do vậy, từ sau Hội nghị Cấp cao 4, tiến trình này đã chững lại. Hợp tác Á - Âu không còn là ưu tiên của hầu hết các nước thành viên. Trong bối cảnh như vậy, việc tổ chức ASEM 5 lại càng trở nên khó khăn hơn. Để thu hút sự quan tâm trở lại của các nước thành viên đối với tiến trình này, Việt Nam đã nêu sáng kiến: ASEM 5 ra Tuyên bố Hà Nội về quan hệ đối tác kinh tế Á - Âu chặt chẽ hơn. Việc đưa sáng kiến trên nhằm tập trung tiêu điểm của hợp tác Á - Âu vào lĩnh vực kinh tế, trong khi vẫn duy trì các trụ cột hợp tác khác về chính trị và văn hóa. Sáng kiến về quan hệ đối tác kinh tế Á - Âu chặt chẽ đã được các nước thành viên khác của ASEM chấp nhận để trở thành một trong ba nội dung lớn trong chương trình nghị sự của ASEM 5. Thành công của ASEM 5 không chỉ là thành công của Việt Nam mà còn là thành công chung của ASEAN.
Ngoài những đóng góp to lớn vào sự phát triển của tiến trình ASEM, Việt Nam còn tham gia tích cực các quan hệ hợp tác khác của ASEAN như Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng (PMC), đối thoại ASEAN - Hoa Kỳ, ASEAN - EU, tiến trình ASEAN + 3, ASEAN + 1...
3 - Đề xuất sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực của ASEAN
Tham gia vào ASEAN, ngoài việc thực hiện đầy đủ những cam kết, nhiệm vụ mà Hiệp hội phân công, Việt Nam còn đưa ra một số sáng kiến có giá trị được ASEAN chấp nhận như sáng kiến về hợp tác phát triển các vùng nghèo liên quốc gia dọc hành lang Đông Tây thuộc lưu vực Mê Công ở Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia và Đông Bắc Thái Lan. Sáng kiến đã được Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 5 (tháng 12-1998) chấp nhận và đưa vào Chương trình hành động Hà Nội.
Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN do Việt Nam đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 tổ chức tại Hà Nội từ ngày 23 đến ngày 25-7-2001 cũng là một trong những sáng kiến mang tầm cỡ chiến lược và phát triển lâu dài. Trong bản Tuyên bố trên, các nhà lãnh đạo ASEAN đã bày tỏ quyết tâm "thúc đẩy hợp tác có hiệu quả và giúp đỡ lẫn nhau thông qua các nỗ lực chung nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN" (8). ASEAN đã cam kết dành nguồn lực đặc biệt để thúc đẩy sự phát triển của Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam.
Sáng kiến gần đây nhất của nước ta là sáng kiến xây dựng Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN. Với việc đề xuất sáng kiến này, Việt Nam đã góp phần hoàn tất cơ sở lý luận cho việc xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa - xã hội.
II - MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI ASEAN
Nhìn lại quá trình tham gia và đóng góp của Việt Nam đối với ASEAN có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, kể từ khi gia nhập ASEAN tới nay, Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong các lĩnh vực hợp tác của ASEAN như an ninh - chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học và giáo dục...
Thứ hai, những sáng kiến do Việt Nam đề xuất không chỉ là dự án bó hẹp trong một lĩnh vực, mà còn là những đề xuất mang tầm vóc chiến lược, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của ASEAN như: Chương trình hành động Hà Nội, Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN, Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN...
Thứ ba, Việt Nam không những góp phần thúc đẩy hợp tác nội bộ, mà còn củng cố thêm các quan hệ hợp tác quốc tế của ASEAN. Những kết quả tốt đẹp của Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu lần thứ 5 do Việt Nam đăng cai và tổ chức là một ví dụ điển hình.
Thứ tư, ngoài sự đóng góp tích cực vì sự phát triển chung của ASEAN, Việt Nam cũng góp phần đáng kể vào sự phát triển của từng nước thành viên ASEAN với những mức độ khác nhau. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, các nền kinh tế ASEAN đã phải đối diện với những thách thức lớn do sự thay đổi của môi trường kinh tế quốc tế và những hệ lụy của một quá trình phát triển không bền vững. Trong bối cảnh như vậy, việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần giải quyết một phần những khó khăn trên. Việt Nam đã cam kết tham gia và giữ vững lộ trình AFTA thông qua việc mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu của các nước ASEAN 6, cung cấp cho các nhà đầu tư của các nước này một địa điểm đầu tư mới, đầy triển vọng.
Thực tế là, cho tới ngày 25-8-2004, tổng số vốn đầu tư của các nước ASEAN vào nền kinh tế Việt Nam đã lên tới 11 tỉ USD. Việt Nam đã trở thành một đối tác thương mại quan trọng của các nước ASEAN 6. Kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Thái Lan và Việt Nam vào năm 2003 đạt mức 1,616 tỉ USD. Các con số tương ứng giữa Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin với Việt Nam là 1,386 tỉ USD; 1,018 tỉ USD và 489 triệu USD (9).
Nói tóm lại, sự tham gia tích cực và những đóng góp to lớn của Việt Nam đối với sự phát triển của ASEAN trong 10 năm qua đã chứng minh rằng các nhà lãnh đạo ASEAN 6 đã không lầm khi đón nhận Việt Nam là thành viên thứ 7. Về phần mình, việc trở thành thành viên chính thức của ASEAN đã mang lại cho Việt Nam những thuận lợi đáng kể như: việc cải thiện và phát triển quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và EU; có được những ưu thế trong tiến trình hợp tác, tham gia vào các tổ chức liên khu vực và quốc tế như Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ASEM và sắp tới là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Nguyễn Thu Mỹ
PGS,TS, Viện nghiên cứu Đông - Nam Á
