Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Các loại hình doanh nghiệp

Doanh nghiệp Việt Nam: Lạc hậu công nghệ khó bề cạnh tranh

06/08/2010 - 326 Lượt xem

Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về năng lực xuất khẩu và khả  năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chỉ có 23,8% DN có hàng XK, 13,7% DN có triển vọng XK và 62,5% hoàn toàn chưa có khả năng tham gia XK. Hơn nữa, các DN còn đang phải chịu sức ép mất thị trường nội địa khi hàng rào thuế quan bảo hộ đang dần bị bãi bỏ.

 

Nguyên nhân của tình trạng trên, ngoài việc do chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh, nghiên cứu thị trường, thiếu hiểu biết về khách hàng và đối thủ cạnh tranh... thì yếu tố cơ bản là do các DN vẫn theo lối tư duy truyền thống là dựa vào lợi thế sức cạnh tranh của nguồn tài nguyên phong phú và nhân công giá rẻ, mà không chủ động chuyển sang cạnh tranh bằng tăng năng suất lao động và áp dụng công nghệ tiên tiến; tức phải chuyển từ những sản phẩm “thô” với hàm lượng giá trị gia tăng thấp sang các sản phẩm “tinh” có hàm lượng chất xám cao.

 

Điều này được phản ánh qua nhóm sản phẩm được đánh giá là có năng lực cạnh tranh của Việt Nam, hiện nay chủ yếu vẫn là những nông sản, khoáng sản chưa qua chế biến hoặc những sản phẩm gia công cho đối tác nước ngoài (như dầu thô, gạo, cà phê, tiêu, điều, dệt may, da giầy...); do đó, hầu hết các mặt hàng này khi phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến thất bại. Thực tế này cũng chỉ ra phần lớn lời giải cho những hạn chế kể trên nằm ở trình độ công nghệ của DN. Đơn cử như ở ngành điều, ông Hồ Ngọc Cầm, Chủ tịch Hiệp hội cây điều Việt Nam khẳng định: “Việt Nam là nước XK điều thứ 2 thế giới, tuy nhiên đến thời điểm này ngành công nghiệp điều của Việt Nam vẫn chưa có thiết bị cơ khí tự động hóa cho công đoạn cắt tách và bóc vỏ lụa mà phải làm thủ công. Chính công đoạn này đã làm tăng giá thành và làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm điều Việt Nam trên thị trường thế giới”.

 

Theo kết quả điều tra về thực trạng DN Việt Nam của Tổng cục thống kê công bố ngày 11-5-2005, hầu hết các DN nước ta ở quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do đó khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Đối với các DNNN lớn cũng ít quan tâm đến đổi mới công nghệ vì thường có vị thế độc quyền nên không chịu sức ép cạnh tranh và có tâm lý dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước. Ngay cả các DN ngành công nghiệp, ngành được coi là chủ lực hoàn toàn cũng tương tự. Theo Bộ Công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm như dệt may có đến 45% thiết bị máy móc của các DN cần phải đầu tư nâng cấp và 30-40% cần thay thế; mũi nhọn công nghiệp là cơ khí thì đã lạc hậu hơn 40 năm so với khu vực và 50 năm so với các nước phát triển về công nghệ và thiết bị sản xuất. Đầu tàu kinh tế của cả nước là TP Hồ Chí Minh cũng chỉ có 25% DN có công nghệ sản xuất tiên tiến, 32% ở mức trung bình, còn lại là dưới trung bình và lạc hậu, trong đó DN có công nghệ lạc hậu chiếm 20%.

 

Các chuyên gia cho rằng, có 2 luồng chuyển giao công nghệ chính vào nước ta hiện nay: hoặc là qua hình thức liên doanh với nước ngoài và DN 100% vốn nước ngoài, hoặc mang tính thương mại thuần túy thông qua việc mua bán công nghệ trên thị trường. Song luồng thứ hai chiếm tỷ lệ rất ít; còn luồng thứ nhất tuy chiếm tới 90% số hợp đồng chuyển giao, nhưng trong đó cũng có không ít những hợp đồng có trình độ công nghệ không cao, mà chủ yếu là khai thác nhân công giá rẻ và trốn tránh các tiêu chuẩn về môi trường ở chính quốc.

 

Thực tế trên đã lý giải vì sao theo công bố của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2004, Việt Nam đứng ở vị trí 66/104 nước về chuyển giao công nghệ.

 

Rõ ràng khi áp lực cạnh tranh ngày càng tăng thì việc nâng cao trình độ công nghệ đối với mỗi DN là vô cùng cần thiết. Để làm được điều đó các chuyên gia cho rằng, trước hết các cấp lãnh đạo DN phải đổi mới nhận thức về tầm quan trọng đặc biệt của công nghệ trong sản xuất và cạnh tranh, không vì cái lợi trước mắt mà đánh mất lợi ích lâu dài. Sự thay đổi về nhận thức sẽ thúc đẩy các DN vượt qua được những trở ngại khác trong việc nghiên cứu, đổi mới và chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các DN trong hoạt động này, như ưu đãi thuế, mở ra các cơ hội tiếp cận vốn, hình thành các trung tâm nghiên cứu, lựa chọn, phát triển và chuyển giao công nghệ phù hợp với DN, cập nhật và phổ biến thông tin công nghệ, thiết lập các hoạt động dịch vụ khoa học-công nghệ theo nguyên tắc thị trường…

 

Nguồn: Báo Hải quan, số 87/2005