
Nhóm tin
Nâng chất lượng và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động
06/08/2010 - 357 Lượt xem
Khả năng cung cấp nhiều lao động cho thị trường ngoài nước
Bà Nguyễn Thị Hoài Thu - Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội: "Hằng năm có gần 60 nghìn lao động được đi làm việc ở nước ngoài. Nếu số lao động này được giải quyết việc làm ở trong nước thì ngân sách Nhà nước phải chi hàng chục tỷ đồng để hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo. Trong khi đó Nhà nước mới hỗ trợ hoạt động xuất khẩu lao động khoảng 2 tỷ đồng/năm, và lập Quỹ hỗ trợ XKLÐ với vốn cấp ban đầu 15 tỷ đồng, nhưng chưa hoạt động được bao nhiêu. Các doanh nghiệp XKLÐ phải tự lo và trang trải, từ tìm thị trường đến tuyển chọn, đưa đi, quản lý, giải quyết hậu quả. Như vậy, nguồn lực Nhà nước đầu tư cho việc ổn định và mở rộng thị trường XKLÐ chưa tương xứng với hiệu quả của XKLÐ. Muốn có việc làm ở nước ngoài, phải thông qua môi giới và trả phí. Việc chưa thừa nhận thực tế này gây ảnh hưởng lớn đến việc tìm và phát triển thị trường XKLÐ và sinh ra một loại phí ngầm không ai kiểm soát được". |
Với lực lượng lao động trẻ khá dồi dào, có trình độ văn hóa và bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, Việt Nam đang nổi lên là một quốc gia có khả năng cung cấp nhiều lao động cho thị trường các nước khu vực Ðông - Nam Á, châu Á, các nước Trung Ðông và nhiều khu vực khác trên thế giới. Hiện có khoảng 400 nghìn lao động làm việc ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế-xã hội của nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển như Ðức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia... vào thời buổi khó khăn, họ đều xuất khẩu lao động (XKLÐ) vừa thu được ngoại tệ, lại có thêm kinh nghiệm. Khi giàu có, họ lại nhập lao động kỹ thuật cao để phát triển khoa học, công nghệ hiện đại, đưa nền kinh tế phát triển cao hơn, hiện đại hơn.
Trong các chuyến đi công tác tới Nhật Bản, Hàn Quốc, Ðài Loan và Malaysia, chúng tôi đã gặp nhiều chủ sử dụng lao động nước ngoài, các lao động Việt Nam đang làm việc ở nhiều nhà máy, công xưởng và gia đình, cảm nhận chung là lao động Việt Nam làm việc rất cần cù và sáng tạo, chủ sử dụng lao động rất hài lòng. Ngài Ða-túc Tang-ong Chơ-u, chủ Tập đoàn Win-bon Ho-ding Be-hai (Malaysia) đã nhận hơn 15 nghìn lao động Việt Nam vào làm việc ở Malaysia, trong lần tiếp chúng tôi ở Kuala Lumpur, đã nói chân thành: "Lao động của các bạn thể hiện tinh thần làm việc rất có trách nhiệm, năng động và sáng tạo. Chúng tôi rất muốn tiếp nhận nhiều hơn nữa lao động Việt Nam". Có thể nói rằng, ở nhiều nơi lao động ta còn góp phần giới thiệu nền văn hóa, phong cách sống đậm chất nhân văn của dân tộc Việt Nam. Một nữ lao động giúp việc gia đình ở Ðài Loan đã làm người dân Ðài Bắc ngạc nhiên, khi cô làm thơ bày tỏ tình cảm lưu luyến với cháu bé mà cô chăm sóc. Không biết rồi đây, khi hết hạn hợp đồng làm việc trở về nước, tôi sẽ khắc phục nỗi nhớ cháu bé như thế nào - cô tâm sự trong thơ như thế. Hoặc một nữ lao động khác làm giúp việc gia đình, ngoài phần việc trong hợp đồng, cô còn tranh thủ lấy đất tốt đổ lên một góc sân thượng, đắp bờ bao, trồng hành, ớt, rau xà-lách, rau cải để làm "rau sạch" trong bữa ăn cho gia đình chủ. Khỏi phải nói, gia đình chủ của hai lao động kể trên quý trọng và yêu mến nữ lao động Việt Nam đến thế nào. Những người lao động Việt Nam đang làm việc tốt ở nước ngoài, sống có nhân cách và để lại ấn tượng đẹp trong lòng người dân nước bạn, cũng rất đáng được biểu dương.
Sớm khắc phục những rào cản và hạn chế
Ông Nguyễn Thanh Hòa - Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LÐ-TB và XH): "Cơ chế, chính sách và luật pháp về XKLÐ tuy đang được bổ sung, từng bước hoàn chỉnh, nhưng còn thiếu các chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm các vi phạm của doanh nghiệp và của người lao động nhất là đối với lao động bỏ hợp đồng, cư trú bất hợp pháp ở bên ngoài. Trước mắt, cần ban hành Nghị định của Chính phủ về quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài, tiến hành xây dựng Luật về XKLÐ. Chúng tôi đang chấn chỉnh công tác XKLÐ, phấn đấu nâng cao chất lượng của lao động Việt Nam, mở rộng thị phần và thị trường lao động trong những năm tới". |
Rào cản lớn nhất hiện nay trong lĩnh vực XKLÐ là nhận thức của nhiều ngành, địa phương, nhiều tầng lớp trong xã hội còn thiếu thống nhất, thậm chí, có người còn coi "giúp việc gia đình" ở nước ngoài như là một việc làm không mấy bình thường, mà không thấy rằng, làm bất cứ việc gì, miễn là lành mạnh, làm việc có hiệu quả, đều là vinh quang. Phải sớm tạo ra trong xã hội sự thống nhất về nhận thức coi XKLÐ là một hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, vừa tạo việc làm, thu được ngoại tệ, còn giúp hình thành phong cách làm việc hiện đại, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HÐH đất nước. Cũng cần khắc phục tư tưởng "ăn sẵn" là đã đi lao động ở nước ngoài là phải làm thật nhiều tiền, thật giàu, trong khi thực tế, hàng triệu người còn thất nghiệp, hoặc cuộc sống vẫn đói nghèo, tìm được một việc làm ở ngoài nước, có thu nhập từ hai đến ba triệu đồng mỗi tháng, cũng là một cơ hội tốt (tất nhiên, nếu làm việc có thu nhập cao ở nước ngoài càng tốt).
Trong những năm trước mắt, chúng ta còn đưa đi XKLÐ một số lượng lớn lao động phổ thông, nhưng từng bước phải đào tạo lao động kỹ thuật, nhất là lao động kỹ thuật cao ở những ngành có xu hướng phát triển như công nghệ thông tin, ứng dụng vật liệu mới, thợ hàn, thợ điện, thợ xây dựng, thợ điều khiển tự động... đáp ứng nhu cầu thị trường lao động ngoài nước. Bên cạnh nâng cao chất lượng lao động, cần sớm tăng nhanh số lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài hằng năm đạt tới hàng trăm nghìn lao động; thường xuyên có khoảng hai hoặc ba, bốn triệu lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Muốn làm được như thế, cần xây dựng hệ thống trường dạy nghề cho lao động xuất khẩu, đào tạo có định hướng và có mục tiêu. Hệ thống giáo dục quốc dân cần đổi mới phương pháp giáo dục, nhằm làm cho học sinh khi học hết THPT là có đủ trình độ ngoại ngữ, tay nghề, có tác phong công nghiệp để vào Trường đào tạo nghề XKLÐ để rèn dũa thêm, đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng hợp đồng, của từng thị trường lao động mà thanh niên đó muốn đến làm việc. Nhà trường, gia đình và xã hội cũng phải góp phần đào tạo lao động, nhất là giáo dục ý thức chấp hành kỷ luật, tôn trọng hợp đồng đã ký với người sử dụng lao động, cùng chịu trách nhiệm khi người lao động phá vỡ hợp đồng, hoặc vi phạm kỷ luật phải trở về nước trước hạn. Chính phủ và các cơ quan có trách nhiệm đang xây dựng, từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật, sao cho bên cạnh việc giáo dục, thuyết phục, cần có biện pháp chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật của lao động đang làm việc ở nước ngoài, song hành với chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp XKLÐ, nhằm hướng vào một mục tiêu: XKLÐ ngày càng có kỷ cương, đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội cho đất nước và gia đình. Nhà nước cần quan tâm, đầu tư lớn hơn về tổ chức, bộ máy và cán bộ; xây dựng cơ chế, chính sách, tiền vốn cho lĩnh vực XKLÐ, nhằm đạt hiệu quả kinh tế- xã hội hơn nữa trong thời gian tới.
Mở rộng thị phần và thị trường lao động
Hiện nay Việt Nam có khoảng 400 nghìn lao động đang làm việc ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, hằng năm số ngoại tệ gửi về gia đình và đất nước đạt tới 1,6 tỷ USD. Trong đó, thị trường lao động chính là Malaysiađang có 100 nghìn lao động, hằng năm có thu nhập khoảng 3.000 tỷ đồng; thị trường lao động Ðài Loan với 95 nghìn lao động, thu nhập khoảng 5.000 tỷ đồng; Hàn Quốc khoảng hơn 30 nghìn lao động, thu nhập khoảng 400 triệu USD/năm; Nhật Bản khoảng 19 nghìn lao động, thu nhập của người lao động khá cao. Ngoài ra, ta mới có vài nghìn lao động ở khu vực Trung Ðông (chủ yếu là UAE), có chuyên gia hoặc một số nhóm lao động ở một số quốc gia châu Phi, châu Âu, và châu Mỹ. Số liệu Cục Quản lý lao động ngoài nước |
So với nhiều quốc gia ở châu Á như Trung Quốc, Philippines, Indonesia... thì Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực XKLÐ, kể cả về số lượng, thị phần và thị trường lao động. Nhưng, nếu có hướng đi và nhận thức đúng, có tổ chức, bộ máy và cán bộ đủ mạnh, có đầu tư để phát triển, thì Việt Nam sẽ từng bước tăng được thị phần ở thị trường đã có, mở thêm được thị trường lao động mới ở ngoài nước. Bên cạnh việc khuyến khích doanh nghiệp XKLÐ đầu tư, mở và khai thác thị trường mới, Nhà nước cần chú trọng đàm phán mở thị trường lao động đối với các quốc gia ở nhiều khu vực trên thế giới có nhu cầu tiếp nhận, sử dụng lao động nước ngoài. Theo hướng đó, Bộ LÐ-TB và XH đã ký văn bản pháp lý với Bộ Nguồn nhân lực Malaysia để đưa lao động Việt Nam vào nước này theo quan hệ chính phủ; tổ chức các đoàn khảo sát thị trường lao động khu vực Trung Ðông như: Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất, A-rập Xê-út, Kuwait và Qatar. Nếu chúng ta có cơ chế, chính sách năng động hơn nữa gắn với đào tạo lao động có chất lượng, khu vực Trung Ðông và nhiều quốc gia khác trên thế giới sẽ thu hút hàng trăm nghìn lao động Việt Nam mỗi năm. Các chương trình "Thẻ xanh" vào CHLB Ðức, "Thẻ vàng" vào Hàn Quốc chuyên tiếp nhận lao động kỹ thuật ở trình độ cao, thu nhập có thể đạt tới 1.500 USD/lao động/tháng, cũng là hướng để Việt Nam quan tâm đầu tư, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong nước và ngoài nước.
Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phan Văn Khải vừa trình bày tại kỳ họp thứ 8 của QH nhấn mạnh: "Chấn chỉnh việc XKLÐ, bảo đảm chất lượng và tín nhiệm của lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài; tạo cơ sở mở rộng thêm thị trường lao động ngoài nước cho lao động Việt Nam" vừa là mục tiêu, lại là định hướng để đẩy mạnh công tác XKLÐ.
Trần Đình Chính
Nguồn: http://www.nhandan.com.vn, ngày 26/10/2005
