
Các loại hình doanh nghiệp
Một số bất cập trong cổ phần hóa công ty nhà nước và định hướng giải pháp
06/08/2010 - 307 Lượt xem
Trong thời gian vừa qua, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được xác định là giải pháp đổi mới quan trọng tạo điều kiện cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường (thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động,…). Tuy nhiên, quá trình cổ phần hóa công ty nhà nước cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện theo hướng đổi mới mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị trung ương 9 Khóa IX và Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng như việc thể chế hóa chủ trương tạo điều kiện cho người lao động có cổ phần, gắn bó, làm chủ thực sự doanh nghiệp chưa thật sát với thực tế; việc xác định giá trị quyền sử dụng đất, giá thuê đất vẫn chưa sát với giá thị trường; chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, cổ phần hóa mạnh các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
1. Về chủ trương tạo điều kiện cho người lao động có cổ phần, gắn bó và làm chủ thực sự doanh nghiệp:
Một trong những tư tưởng xuyên suốt của chủ trương, chính sách về cổ phần hóa từ giai đoạn thí điểm đến nay là “Ưu tiên bán cổ phần cho người lao động” nhằm tạo điều kiện cho người lao động được sở hữu cổ phần, gắn bó và được làm chủ doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành (Nghị định 187/2004/NĐ-CP) thì người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định cổ phần hóa được mua tối đa 100 cổ phần (mệnh giá cổ phần là 10.000đồng) cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực nhà nước với giá giảm 40% so với giá đấu bình quân bán cho nhà đầu tư khác. Tuy nhiên, khi thực hiện quy định này đã nảy sinh một số vấn đề bất cập sau đây:
- Thứ nhất, chính sách ưu đãi cho người lao động được tính chủ yếu theo cống hiến cho Nhà nước (tính toàn bộ thời gian làm việc cho Nhà nước và theo thâm niên công tác) dẫn đến tình trạng những người có thời gian làm việc lâu năm nhất cho doanh nghiệp và Nhà nước – người sắp về hưu, sẽ không thể tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp lại là người được hưởng chính sách ưu đãi để có thể sở hữu cổ phần nhiều nhất; còn những lao động trẻ – những người có thể làm việc gắn bó lâu dài với doanh nghiệp sẽ sở hữu ít cổ phần, cổ phiếu hơn. Như vậy, mục tiêu tạo điều kiện cho người lao động – những người gắn bó lâu dài có điều kiện làm chủ doanh nghiệp rất khó đạt được.
- Thứ hai, để thể chế hóa mục tiêu đảm bảo hài hòa lợi ích của các đối tượng tham gia vào quá trình cổ phần hóa, đặc biệt là của Nhà nước và người lao động; các quy định pháp quy về cổ phần hóa quy định người lao động trong doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp lãi nhiều hoặc lỗ nhiều) đều được mua tối đa 100 cổ phần cho một năm thực tế làm việc tại khu vực Nhà nước với mức giá ưu đãi 40% so với giá đấu bình quân bán cho các nhà đầu tư khác. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận không cao, thậm chí thua lỗ nhưng có lợi thế về đất đai (không phải yếu tố do công lao, đóng góp của người lao động) lại được đấu giá với giá đấu thành công rất cao nên người lao động ở những doanh nghiệp này sẽ được hưởng phần chênh lệch khá lớn do được giảm tới 40% giá đấu (thí dụ nếu giá đấu thành công là 20.000đ/cổ phần thì người lao động được hưởng mức chênh lệch là 8.000đ/cổ phần nhưng nếu giá đấu thành công 200.000đ/cổ phần thì họ được hưởng mức chênh lệch là 80.000đ/cổ phần – so sánh thấy trong trường hợp 2 người lao động sẽ được hưởng mức chênh lệch cao hơn so với trường hợp 1 là 72.000đ/cổ phần). Trong khi đó cũng xảy ra nhiều trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận khá cao nhưng không có lợi thế về đất đai lại thường có giá đấu thành công không cao bằng trường hợp nêu trên nên mặc dù đội ngũ lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp rất cố gắng kinh doanh có lợi nhuận cao nhưng lại được hưởng lợi ích thấp hơn. Việc quy định ưu đãi mua cổ phần tính theo thâm niên công tác làm việc cho khu vực nhà nước cũng không đảm bảo sự công bằng giữa những người đã làm việc lâu năm tại doanh nghiệp và có nhiều cống hiến cho doanh nghiệp với những người có nhiều năm làm việc ở các cơ quan nhà nước mới chuyển về làm việc tại doanh nghiệp và không đúng mục tiêu “đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp,… và người lao động trong doanh nghiệp”; đồng thời cũng chưa đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng này với những cán bộ công nhân viên đã và đang làm việc cho khu vực nhà nước khác không được hưởng ưu đãi tương tự. Vì vậy, có ý kiến cho rằng nếu vẫn giữ quy định ưu đãi nêu trên thì trong thời gian tới nên cân nhắc việc cho toàn bộ cán bộ công nhân viên làm việc cho khu vực nhà nước (công chức, viên chức nhà nước) được hưởng ưu đãi mua cổ phần ở các doanh nghiệp gần như người lao động trong doanh nghiệp.
- Thứ ba là, do người lao động và nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phần ưu đãi với giá bằng 60% và 80% giá đấu bình quân bán cho các nhà đầu tư khác mà giá đấu này được tính gộp cả giá trị quyền sử dụng đất và lợi thế về đất đai của doanh nghiệp. Như vậy, phải chăng người lao động và đối tác đầu tư chiến lược cũng được hưởng giảm giá cả giá trị quyền sử dụng đất và lợi thế về đất đai của doanh nghiệp.
- Thứ tư là, thực tế cho thấy cổ phần của phần lớn các doanh nghiệp được các nhà đầu tư đấu giá rất cao làm cho giá mua cổ phần ưu đãi của người lao động cũng cao theo, thậm chí là giá thị trường ảo[1] dẫn đến việc nhiều người lao động tại doanh nghiệp khó có đủ tiền để mua cổ phần ưu đãi. Điều này có thể dẫn đến tình trạng thu gom, mua lại cổ phần với số lượng lớn để biến doanh nghiệp thành sở hữu của một nhóm người hoặc một tổ chức, còn một bộ phận không nhỏ người lao động trong doanh nghiệp trở thành người làm công ăn lương. Như vậy khó có thể bảo đảm được chủ trương tạo điều kiện cho người lao động được sở hữu cổ phần, gắn bó và làm chủ doanh nghiệp
Ví dụ điển hình là trường hợp của Công ty Intimex, tổng số cổ phần đem ra đấu giá công khai là 1.682.000 với mức giá khởi điểm là 10.200 đồng/ cổ phần nhưng giá đấu giá thành công cao nhất của phiên đấu giá lên tới 162.100 đồng (gấp gần 16 lần), giá đấu giá thành công thấp nhất là 160.000 đồng, giá đấu bình quân là 160.025 đồng. Như vậy, giá cổ phần ưu đãi cho người lao động sẽ là 96.015 đồng/ cổ phần và theo quy định của chính sách ưu đãi thì người lao động của Intimex ít nhất cũng được mua ưu đãi vài trăm cổ phần và người nhiều nhất cũng đến vài nghìn cổ phần. Với mức giá này thì nhiều người lao động cũng không có khả năng mua được hết cổ phần ưu đãi dành cho họ.
Vì vậy, nếu đặt mục tiêu đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động theo hướng tạo điều kiện cho người lao động sở hữu cổ phần, gắn bó và làm chủ doanh nghiệp cổ phần hóa thì đề nghị nên cân nhắc sửa đổi một số chính sách ưu đãi theo hướng sau đây:
- Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hóa được mua trả chậm cổ phần theo giá ưu đãi so với giá đấu bình quân bán cho nhà đầu tư khác.
- Quan tâm và tạo điều kiện hơn nữa cho những người lao động sẽ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp thông qua việc cho họ được mua một số lượng cổ phần thích hợp với giá hợp lý nếu họ cam kết làm việc lâu dài với doanh nghiệp.
- Tính giá trị quyền sử dụng đất sát với giá thị trường và tách phần này khỏi giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp.
- Mức ưu đãi cho thời gian làm việc ở doanh nghiệp cao hơn mức ưu đãi cho thời gian làm việc ở các cơ quan nhà nước.
2. Về công tác xác định giá trị doanh nghiệp
Theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/2004/TT-BTC, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp gồm phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu, trong đó quy định các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây dựng, tin học và chuyển giao công nghệ áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu. Tuy nhiên, trong thực tế hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hóa lựa chọn phương pháp tài sản và theo phương pháp này thì “giá trị thực tế của doanh nghiệp không bao gồm … giá trị tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý,…”. Trong khi đó lại chưa có hướng dẫn cụ thể về tiêu chí xác định loại tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý nên đã xảy ra tình trạng tùy tiện loại nhiều tài sản ra khi xác định giá trị doanh nghiệp,… làm cho giá trị doanh nghiệp không phản ánh đúng giá trị thực tế của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cổ phần hóa được duy trì hợp đồng thuê đất hoặc được hưởng các quyền sử dụng đất trong trường hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất với mức giá thuê và giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố công bố ngày 1 tháng 1 hàng năm mà mức giá này thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường, đặc biệt đối với những doanh nghiệp nằm ở những vị trí thuận lợi. Do đó, cần xem xét điều chỉnh lại phần diện tích mà doanh nghiệp đang sử dụng cho phù hợp với phương án kinh doanh của doanh nghiệp và giá trị quyền sử dụng đất, thuê đất sát hơn với giá thị trường nhằm tránh thất thu cho Nhà nước.
Đồng thời, do không xác định cụ thể được phần chênh lệch giữa giá trị quyền sử dụng đất, giá thuê đất theo quy định so với giá thị trường nên không thấy rõ được phần tăng lên do yếu tố đất đai và phần tăng do các yếu tố khác khi đấu giá cổ phần của doanh nghiệp.
Do đó, cần bổ sung quy định cụ thể hơn về tiêu chí xác định loại tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý; đồng thời quy định giá trị quyền sử dụng đất, thuê đất sát hơn với giá thị trường nhằm tránh thất thu cho Nhà nước.
3. Về quan hệ giữa tiêu chí xác định danh mục doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa và hình thành công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế
Có sự nhầm lẫn về khái niệm sở hữu (Nhà nước trực tiếp sở hữu hay Công ty mẹ sở hữu vốn tại công ty con) khi áp dụng tiêu chí “Nhà nước nắm giữ 100% vốn đối với những doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực sau” hoặc “Những doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần” tại phụ lục ban hành kèm theo Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg đối với trường hợp sắp xếp, tổ chức lại tổng công ty nhà nước đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định sang hoạt động theo hình thức nhóm công ty (công ty mẹ – công ty con) quy định tại Luật doanh nghiệp. Đó là vì, do đối tượng áp dụng tiêu chí này bao gồm cả công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc các tổng công ty nên quy định nêu trên sẽ dẫn đến cách hiểu là những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực này nếu đang là doanh nghiệp thành viên của tổng công ty thì sẽ phải tách ra khỏi tổng công ty trở thành doanh nghiệp độc lập hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước trực tiếp làm chủ sở hữu của công ty hoặc dưới hình thức công ty cổ phần mà Nhà nước trực tiếp là cổ đông của công ty và như vậy sẽ không thể chuyển đổi sang được hình thức công ty mẹ – công ty con. Trong khi đó, trong hình thức công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ góp vốn đầu tư (kể cả bằng cách vay vốn của các tổ chức tài chính, ngân hàng) để trở thành thành viên hoặc cổ đông nắm giữ phần vốn góp, cổ phần chi phối mà không phải Nhà nước trực tiếp đầu tư để Nhà nước trở thành thành viên hoặc cổ đông nắm phần vốn góp, cổ phần chi phối tại các công ty con này.
Hơn nữa, nội dung tiêu chí Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc phần vốn, cổ phần chi phối ở doanh nghiệp do mình làm chủ sở hữu hoặc góp vốn có sự khác biệt nhất định với nội dung tiêu chí Công ty mẹ nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc phần vốn, cổ phần chi phối ở công ty con. Thực tế hình thành tập đoàn kinh tế ở một số nước trên thế giới và ngay trong thực tế hình thành một số tập đoàn kinh tế ở nước ta trong thời gian qua (Tập đoàn Bưu chính viễn thông, Tập đoàn Bảo Việt,….) cho thấy: tùy theo tầm quan trọng của công ty con đối với toàn tập đoàn mà họ quyết định đầu tư để sở hữu toàn bộ vốn điều lệ ở một số công ty con (hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên – Tập đoàn Petronas của Maylaysia có tới 55 công ty con có 100% vốn của công ty mẹ) hoặc xác định mức độ góp vốn, mua cổ phần để thực hiện mức độ chi phối những công ty con là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên (ngay một số tập đoàn mới được hình thành ở nước ta cũng có những công ty con không đúng tiêu chí phân loại quy định). Đồng thời, kinh nghiệm của các nước cho thấy có 4 dạng chi phối (không phải chỉ có 2 mức chi phối là nắm giữ 100% vốn điều lệ và trên 50% tổng số cổ phần như quy định) chủ yếu bằng vốn như sau: chi phối tuyệt đối khi công ty mẹ nắm giữ tỷ lệ vốn trên mức quy định của pháp luật để quyết định mọi vấn đề và không có cổ đông, thành viên hoặc nhóm cổ đông, thành viên khác nắm quyền phủ quyết; chi phối tương đối khi công ty mẹ nắm giữ tỷ lệ vốn trên mức quy định của pháp luật để quyết định những vấn đề quan trọng và có thể có cổ đông, thành viên hoặc nhóm cổ đông, thành viên khác nắm quyền phủ quyết; chi phối thực tế trong trường hợp công ty mẹ tuy nắm giữ tỷ lệ vốn dưới mức quy định của pháp luật nhưng vẫn chi phối các quyết định quan trọng của công ty; chi phối phủ quyết khi công ty mẹ nắm giữ tỷ lệ vốn ở mức quy định của pháp luật để có thể phủ quyết khi quyết định các vấn đề quan trọng của công ty con.
Vì vậy, trong khi chưa sửa đổi, bổ sung Quyết định này cần thống nhất cách hiểu cụm từ “Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” và “Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần” đối với trường hợp công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước là “Công ty mẹ nắm giữ 100% vốn điều lệ” và “Công ty mẹ nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần”. Đồng thời cho phép các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước không áp dụng một cách cứng nhắc các tiêu chí khi chuyển đổi các công ty con sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật doanh nghiệp mà Đề án chuyển đổi các công ty con và hình thành công ty mẹ cần phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Nguồn: VNEP – 06/2007
[1] Có những trường hợp, cổ phiếu được các nhà đầu tư trả giá tới 20 triệu, 40 triệu, 70 triệu đồng/ cổ phần để rồi bỏ không mua, kéo giá đấu giá bình quân cao ngất ngưởng.
