
Tổng hợp
Một số thay đổi về thể chế kinh tế thị trường của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO
06/08/2010 - 344 Lượt xem
Khoảng thời gian gần 6 năm sau khi gia nhập WTO vừa qua là thời kỳ kinh tế phát triển nhanh nhất trong lịch sử Trung Quốc. Năm 2005, Trung Quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới với một tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trên dưới 10% cùng những kết quả ấn tượng trên mọi mặt của nền kinh tế. Năm 2002, năm đầu tiên sau khi gia nhập WTO, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vượt qua ngưỡng 10.000 tỷ NDT, GDP bình quân đầu người năm 2003 vượt qua ngưỡng 1000 USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2004 vượt qua ngưỡng 1000 tỷ USD, thu thuế tài chính năm 2005 vượt qua ngưỡng 3000 tỷ NDT, dự trữ ngoại tệ năm 2006 vượt qua ngưỡng 1000 tỷ USD. Từ năm 2001-2005, thu nhập bình quân đầu người từ 1.038 USD tăng lên 1.700 USD. Theo Cục Thống kê Nhà nước Trung Quốc, GDP của quốc gia này trong năm 2006 đã đạt 2.700 tỷ USD, tăng tới mức 10,7%. Các chuyên gia kinh tế nhận định, nền kinh tế nước này ít nhất có thể duy trì mức tăng trưởng cao 8-10% cho tới năm 2025. Đến năm 2008, Trung Quốc có khả năng vượt Đức, trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới.
Với những thành tựu nổi bật như vậy, trong Báo cáo Đổi mới 2007, các viện khoa học trung ương và các trường đại học hàng đầu Trung Quốc đã mạnh dạn đưa ra dự báo rằng, tới năm 2015, Trung Quốc có thể chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp. Sự tăng trưởng nói trên không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân Trung Quốc, mà còn đóng góp to lớn vào tăng trưởng của kinh tế thế giới. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), từ khi gia nhập WTO đến nay, bình quân đóng góp tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đối với tăng trưởng kinh tế thế giới là 13%; sự phát triển của Trung Quốc đã trở thành trụ cột quan trọng và là lực lượng lôi kéo kinh tế toàn cầu phát triển.
Không thể phủ nhận những cơ hội to lớn về thương mại và đầu tư do việc gia nhập WTO mang lại. Tuy nhiên, những con số ấn tượng của kinh tế Trung Quốc không phải quốc gia nào cũng có thể đạt được khi bước chân vào sân chơi chung của thế giới này. Thực tế là, thành công của Trung Quốc từ khi nước này bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường nói chung và từ khi gia nhập WTO nói riêng chủ yếu được dựa trên các chính sách và chiến lược có tính thích nghi. Trung Quốc đã có những bước đi đúng đắn trong tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường của mình, nhờ đó mới có được những bước tiến nhanh chóng về kinh tế mà bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải dõi theo như một hiện tượng. Dưới đây là một số cải cách thể chế kinh tế nổi bật đã giúp Trung Quốc vươn lên hàng đầu thế giới trong các lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ... cũng như trở thành trung tâm đầu tư, sản xuất và tiêu thụ của thế giới.
I- MỘT SỐ THAY ĐỔI CƠ BẢN VỀ THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
1- Thể chế tài chính
Cũng giống như nhiều quốc gia khác, gia nhập WTO với yêu cầu mở cửa lĩnh vực dịch vụ tài chính nói chung, dịch vụ ngân hàng nói riêng là một trong những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Trung Quốc với một hệ thống tài chính còn non trẻ. Gia nhập WTO, một câu hỏi được đặt ra là liệu sự kiện này có đem lại động lực để thay đổi thể chế trong khu vực ngân hàng của nước này hay không? Hiện nay, Trung Quốc là một trong những nền kinh tế tiền tệ hoá nhất trên thế giới. Cuối năm 2000, tín dụng ngân hàng bằng 117% GDP. Tuy nhiên, 4 ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh lớn của Trung Quốc chiếm tới trên 70% thị trường tiền gửi và tín dụng. Lãi suất do Chính phủ quy định và các ngân hàng ít gặp rủi ro về giá. Chiến lược trung hạn của Trung Quốc là phát triển các thể chế tài chính lành mạnh không bị tổn thương bởi làn sóng cạnh tranh nước ngoài và phát triển thị trường liên ngân hàng tạo điều kiện cho tự do hoá lãi suất và quản lý rủi ro.
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã có những cam kết quan trọng về việc cải cách lĩnh vực tài chính: (1) Các ngân hàng nước ngoài (NHNNg) được phép thực hiện tất cả các hình thức giao dịch ngoại hối với khách hàng nước ngoài ngay khi gia nhập; (2) Trong vòng 1 năm sau khi gia nhập WTO, các NHNNg sẽ được phép thực hiện tất cả các hình thức giao dịch ngoại hối với khách hàng Trung Quốc tại các thành phố được chỉ định. Danh sách những thành phố này được Chính phủ Trung Quốc mở rộng thêm 4 thành phố mỗi năm; (3) Trong vòng 2 năm sau khi gia nhập WTO, các NHNNg được phép cho doanh nghiệp vay bằng bản tệ; (4) 5 năm sau khi gia nhập WTO, các NHNNg được phép quan hệ với khách hàng cá nhân Trung Quốc; (5) NHNNg được phép thành lập liên doanh ngay khi gia nhập; (6) Trong vòng 5 năm sau khi gia nhập WTO, phía nước ngoài được phép sở hữu toàn phần đối với các ngân hàng Trung Quốc. Vừa qua, Ủy ban Quản lý Chứng khoán Trung Quốc đã ban hành các quy định quản lý mới, “bật đèn xanh” cho các sở giao dịch chứng khoán nước ngoài mở văn phòng đại diện tại Trung Quốc. Các quy định này sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2007. Theo đó, các ngân hàng nước ngoài được phép kinh doanh tiền tệ tại các địa phương của Trung Quốc. Đồng thời những hạn chế đối với việc tham gia của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán, bảo hiểm đã và đang được gỡ bỏ dần. Điều này cho phép tăng tính cạnh tranh, đổi mới kỹ thuật công nghệ và có thêm nhiều nguồn vốn đầu tư.
Thực hiện đúng cam kết mở cửa hoàn toàn khu vực ngân hàng sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, Trung Quốc cho phép các ngân hàng nước ngoài thực hiện "không hạn chế" các giao dịch bán lẻ nhân dân tệ (NDT) từ ngày 11-12-2006. Như vậy, Trung Quốc đã chấp nhận cạnh tranh toàn diện ở khu vực ngân hàng. Hiện đại hóa và quốc tế hóa hệ thống ngân hàng và rộng hơn là hệ thống tài chính có lẽ là chương cuối và khó khăn nhất trong quá trình chuyển đổi kinh tế của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc hiểu rõ ngành ngân hàng trong nước rất cần mở cửa cạnh tranh với nước ngoài để phát triển. Vai trò truyền thống của các ngân hàng làm "cỗ máy" cho vay của Chính phủ chỉ làm cao thêm "núi" nợ xấu và hạn chế phát triển lành mạnh kinh tế. Hơn 5 năm qua, Trung Quốc đã tiến hành những cải cách sâu rộng theo hướng thị trường hệ thống ngân hàng để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh này.
Chính phủ tập trung trước hết cải cách hệ thống ngân hàng nhà nước (NHNN) nhằm tạo nên những trụ cột vững chắc cho hệ thống ngân hàng trong nước. Phần lớn các NHNN đã được thương mại hóa, công ty hóa theo Luật công ty Trung Quốc, được cơ cấu lại và cấp lại vốn. Tiến trình cải cách bốn NHNN này bắt đầu năm 1997, nhưng thực sự được đẩy mạnh từ sau khi gia nhập WTO. Tiến trình này được tiến hành lần lượt theo các bước: chính phủ "tiêm" vốn; lập công ty quản lý tài sản để xử lý nợ xấu; tìm đối tác đầu tư nước ngoài chiến lược để thu hút vốn và kỹ thuật quản lý tiên tiến, nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro và cải thiện các dịch vụ; lập công ty cổ phần; tìm cơ hội niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chính phủ Trung Quốc đã củng cố lại hệ thống ngân hàng trong nước bằng cách giúp các ngân hàng này thanh toán các khoản nợ tồn đọng, và áp dụng các nguyên tắc cơ bản của các ngân hàng quốc tế. Hơn 400 tỷ USD đã được chính phủ chi ra để xóa nợ xấu cho bốn ngân hàng. Ngoài ra, để đáp ứng các yêu cầu của môi trường kinh doanh mới, một số ngân hàng trong nước đã tiến hành liên doanh, liên kết với các ngân hàng nước ngoài để có thêm vốn ngoại tệ và kinh nghiệm hoạt động, đồng thời, các ngân hàng nước ngoài cũng có điều kiện kinh doanh tiền tệ dễ dàng hơn ở thị trường Trung Quốc.
Nhiều chuyên gia nước ngoài đánh giá những cải cách hệ thống ngân hàng của Trung Quốc đang đi đúng hướng. Việc quản lý và điều tiết khu vực ngân hàng ngày càng chuyên nghiệp hơn và phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế. So với các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng trong nước có lợi thế là số lượng lớn khách hàng và mạng lưới chi nhánh dày đặc. Phải mất nhiều năm các ngân hàng ngoại mới có thể xây dựng được mạng lưới quy mô tương xứng các ngân hàng nội. Mặc dù vậy, không ỷ lại lợi thế hiện tại, hiểu rõ những hạn chế và "sức nóng" sắp tới của cuộc cạnh tranh, Chính phủ Trung Quốc quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh cải cách khu vực ngân hàng. Hội nghị công tác tài chính toàn quốc lần thứ ba của chính phủ tháng 1-2007 đưa ra gói chính sách lớn cải cách hệ thống tài chính, trong đó với khu vực ngân hàng nhấn mạnh hai biện pháp là: Ba ngân hàng chính sách gồm Ngân hàng phát triển Trung Quốc (CDB), Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc và Ngân hàng phát triển nông nghiệp Trung Quốc sẽ được thương mại hóa, đi đầu là CDB. Ngân hàng nông nghiệp Trung Quốc (ABC) sẽ được cơ cấu lại thành ngân hàng cổ phần. Các ngân hàng Trung Quốc hiện nay được tập trung cải cách ba mặt: cải thiện năng lực quản lý tài sản và kiểm soát rủi ro; giải quyết nợ xấu; cải cách kinh doanh.
Bên cạnh mở cửa lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, cùng với việc tự do hóa kinh tế và thương mại, tự do hóa tài chính cũng là một yêu cầu bắt buộc của WTO. Đây được coi là phương tiện, là khâu đột phá và thường được tiến hành trước một bước trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trung Quốc đã xây dựng lộ trình tự do hóa tài chính dựa trên cách tiếp cận của ADB. Trình tự mở cửa thị trường tài chính của Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở thừa nhận sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro và thực hiện tự do hóa thận trọng, đầu tiên là khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp theo là đầu tư gián tiếp nước ngoài vào TTCK, cuối cùng là tự do hóa các khoản vay nợ nước ngoài, cụ thể là: Giải quyết nợ xấu để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng; Xây dựng thể chế để có hệ thống luật pháp công khai minh bạch; Từng bước tự do hóa tài chính nội địa; Từng bước tự do hóa lãi suất; Tổ chức lại và củng cố các TCTD để tăng cường năng lực cạnh tranh; Thực hiện cơ chế tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn; Giải quyết khó khăn tài khóa để giảm bớt tình trạng thất nghiệp.
Đã 6 năm kể từ khi gia nhập WTO, khu vực ngân hàng của Trung Quốc không dễ bị thôn tính bởi các đối thủ nước ngoài bởi Chính phủ đã có những phản hồi đúng hướng và có những bước đi thận trọng. NHNNg đã trở thành động lực cho khu vực tài chính của Trung Quốc trong việc cải cách thể chế cơ cấu mà không đem lại những cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc coi cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng thu hút đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ. Cùng với việc hướng dẫn nước ngoài đầu tư phù hợp với chính sách phát triển ngành nghề một cách đồng bộ, Trung Quốc đã có gắng quy hoạch và xây dựng một môi trường khá hoàn thiện và ưu đãi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Sau khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc tiếp tục sửa đổi môi trường pháp chế nhằm đáp ứng yêu cầu của chế độ quản lý mậu dịch đối ngoại WTO cũng như những điều kiện thực tế mới của môi trường đầu tư nước này. Nhìn chung, những chỉnh sửa về luật pháp được thực hiện theo hướng minh bạch và nhiều ưu đãi, một giá về cước dịch vụ viễn thông, điện, nước và các loại phí cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng chung thuế suất cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được ưu đãi thuế nhập khẩu nguyên liệu cho các ngành mũi nhọn của nền kinh tế, những dự án công nghiệp tạo động lực cho các ngành kinh tế khác, sản xuất sản phẩm mới có sức cạnh tranh toàn cầu, những ngành và lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, tạo việc làm.
Cụ thể, năm 2001 và 2002, Trung Quốc đã tiến hành sửa đổi các điều luật liên quan đến ba bộ luật dành cho nhà đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng. Đó là: "Luật xí nghiệp kinh doanh chung vốn giữa Trung Quốc và nước ngoài", "Luật xí nghiệp kinh doanh hợp tác với nước ngoài", và "Luật xí nghiệp vốn nước ngoài". Các điều chỉnh đều theo hướng mở rộng, không chỉ đảm bảo được những lợi ích căn bản của nhà đầu tư nước ngoài, mà còn đảm bảo được lợi ích của các ngành nghề trong nước, đồng thời tạo ra một số quyền lợi cơ bản cho nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, năm 2005, thuế suất hải quan của Trung Quốc giảm xuống đạt mức trung bình của các nước đang phát triển, thuế suất bình quân hàng công nghiệp giảm xuống khoảng trên dưới 10%, ngoài những biện pháp phù hợp với quy tắc của WTO, sẽ thủ tiêu toàn bộ mà không tăng thêm bất kỳ biện pháp phi thuế quan mới nào khác, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài có một phần quyền xuất nhập khẩu thì sẽ được hưởng quyền mậu dịch hoàn toàn…
Nhà nước sử dụng rất linh hoạt các công cụ quản lý và các biện pháp kinh tế để can thiệp vào thị trường nhằm tạo sự ổn định và tạo sự yên tâm cao cho các nhà đầu tư. Bởi vậy, Trung Quốc đã trở thành một trong những địa điểm hấp dẫn nhất về thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc thực hiện chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài nhằm giảm áp lực cho đồng nội tệ, vì dự trữ ngoại tệ của nước này không ngừng tăng cao. Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc hiện tăng khoảng 18 tỷ USD/tháng và vừa đạt con số kỷ lục 1.000 tỷ USD vào đầu tháng 11. Trung Quốc hiện có lượng dự trữ ngoại tệ lớn nhất trên thế giới. Đến nay Trung Quốc đã đầu tư trên 6 nghìn xí nghiệp tại 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
2- Thể chế thương mại
Có thể nói, động lực quan trọng của nền kinh tế Trung Quốc là xuất khẩu. Chính vì vậy, cải cách thể chế thương mại được xem như vấn đề trọng tâm của chính phủ Trung Quốc. Để tháo dỡ những rào cản trong thương mại, vừa là để tuân thủ các quy định của WTO, vừa nhằm tạo ra một môi trường chính sách thông thoáng, bình đẳng, minh bạch trong thương mại, Trung Quốc đã tiến hành cắt giảm bảo hộ đối với sản xuất trong nước, nhờ đó làm tăng lượng hàng hóa nhập khẩu đồng thời làm tăng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào nước này. Kết quả là, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lại là nguyên nhân chính dẫn đến tăng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Hơn nữa, nhằm gia tăng giá trị xuất khẩu, Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng hơn đến sáng tạo công nghệ và đẩy mạnh việc thiết lập thương hiệu quốc tế, nhằm tăng giá trị của hàng xuất khẩu. Đồng thời, Trung Quốc sẽ duy trì tốc độ tăng nhập khẩu một cách hợp lý, rút dần sự phụ thuộc vào chiến lược xuất khẩu.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã tiến hành sửa đổi hệ thống pháp luật theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường và cho phù hợp với các nghĩa vụ của Trung quốc với tư cách là một thành viên của WTO. Hai trong ba nhiệm vụ quan trọng nhất đó là: (1) không phân biệt đối xử với nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ theo nguyên tắc tối huệ quốc; (2) gỡ bỏ hầu hết các hàng rào phi thuế quan, đồng thời xây dựng một chế độ ngoại thương trong đó thuế được sử dụng như một công cụ chủ yếu. Đồng thời, Trung Quốc không ngừng nâng cao tính minh bạch trong hoạt động ngoại thương, cải tiến các thủ tục hành chính, gỡ bỏ dần dần mọi hình thức gây cản trở thương mại.
Cụ thể, Trung quốc trao quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương nhiều hơn xuống các địa phương, các xí nghiệp sản xuất cỡ nhỏ và vừa; từng bước mở rộng quyền kinh doanh cho các tổng công ty xuất - nhập khẩu... Bên cạnh đó, thực hiện chế độ khoán kinh doanh ngoại thương, nới lỏng quyền hạn kinh doanh, thông qua phương thức khoán chỉ tiêu hàng hoá và thu nhập từ xuất - nhập khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp và công ty xuất - nhập khẩu ngoại thương. Để phối hợp với việc thực hiện chế độ trách nhiệm khoán kinh doanh ngoại thương một cách đồng bộ, Trung Quốc đã thực hiện cải cách một số thể chế như thể chế kế hoạch ngoại thương, kinh doanh xuất - nhập khẩu, phân phối lợi nhuận ngoại thương, giữ lại ngoại tệ, tài vụ ngoại thương. Ngoài ra, Chính phủ còn chú trọng phát triển các cơ quan thương vụ ở nước ngoài. Cùng với việc mở rộng quan hệ mậu dịch qua lại với các nước trên thế giới, hoạt động ngoại thương của Trung Quốc ngày càng sôi động thông qua việc thành lập các cơ quan thương vụ ở các nước có và chưa có quan hệ ngoại giao. Ngoài ra, Trung Quốc còn lập ra các văn phòng đại diện, công ty xuất - nhập khẩu của mình, đặc biệt là bốn trung tâm mậu dịch lớn ở New York, Atlanta, Panama, Hambourg.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Trung Quốc cũng đã áp dụng hàng loạt chính sách mới nhằm đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), quyền lợi của người tiêu dùng… Đồng thời nhiều quy định liên quan đến các hoạt động như giám sát, kế toán, kiểm toán cũng được sửa đổi cho phù hợp với môi trường có mức độ cạnh tranh lớn hơn. Cụ thể, sau khi trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc đã tiến hành bổ sung và chỉnh sửa toàn diện các luật có liên quan đến bảo vệ quyền SHTT và ban hành một số quy định mới nhằm cung cấp nền tảng pháp lý mạnh hơn cũng như nêu bật lên vấn đề SHTT trong phát triển khoa học- công nghệ và trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong 5 năm 2001-2005, Trung quốc đã tiến hành sửa đổi và xây dựng rất nhiều các điều luật và quy định liên quan đến quyền SHTT như Luật Sáng chế, Luật Bản quyền tác giả, Luật Nhãn hiệu thương mại, các quy định về bảo hộ SHTT hải quan, bảo hộ phần mềm máy tính, bảo hộ thiết kế mạch tích hợp, biểu tượng Olympic, Bản quyền sưu tập, các sản phẩm băng đĩa nghe nhìn, bằng sáng chế quốc phòng, ký hiệu đặc biệt... Các cơ quan của chính phủ và cơ quan pháp luật có liên quan cũng xây dựng một hệ thống các quy định, văn bản, diễn giải luật pháp. Những văn bản pháp quy này cùng với các điều luật và quy định khác đã cho phép Trung quốc tạo ra một hệ thống pháp luật quyền SHTT hoàn chỉnh phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và là cơ sở quan trọng cho việc thiết lập hệ thống thực thi quyền SHTT của nước này. Đồng thời, để thực thi có hiệu quả Hiệp định TRIPS, Trung quốc đã cho sửa đổi Luật Hình sự, đưa vấn đề vi phạm quyền SHTT vào trong Bộ Luật này, cung cấp khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hải quan trong việc bảo vệ quyền SHTT và tăng thêm quyền hạn cho Phòng Công nghiệp và Thương mại (IAC) và các văn phòng ủy viên công tố trong việc phát hiện các sản phẩm sao chép. Bên cạnh đó, nước này còn thành lập một bộ phận phụ trách về quyền SHTT trong Tòa án tối cao. Ngoài ra, ngày càng nhiều công ty đa quốc gia thiết lập trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại Trung Quốc để khai thác nguồn tài nguyên chất xám của nước này; và Trung Quốc cũng từ đó mà vươn lên trên bản đồ trí tuệ thế giới. Chính phủ Trung Quốc kêu gọi các doanh nghiệp làm thay đổi đất nước Trung Hoa bằng cách chú ý vào phòng thí nghiệm ngang với vào nhà máy. Không chỉ hô hào, Trung Quốc còn tăng mạnh đầu tư cho hoạt động R&D. Vào cuối thập niên 1990, Trung Quốc chi cho nghiên cứu khoa học 1% GDP, con số này hiện nay là 1,5% GDP và sẽ nâng lên 2,5% GDP - tương đương mỗi năm 115 tỉ đô la Mỹ vào năm 2025.
3-Cải cách doanh nghiệp nhà nước
Quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang diễn ra là một trong những yếu tố cơ bản của định hướng thiết lập thể chế kinh tế theo hướng thị trường của Trung Quốc. Thực ra, Trung Quốc đã tiến hành cải cách DNNN ngay từ khi nước này thực hiện công cuộc cải cách nền kinh tế theo hướng thị trường năm 1978, và đã thu được những thành tựu đáng kể. Trung Quốc xác định rõ cải cách doanh nghiệp là khâu then chốt trong cải cách thể chế kinh tế với yêu cầu cơ bản như: xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp, phát huy tính tích cực của doanh nghiệp và của người lao động; tách quyền hạn giữa DNNN với chính quyền; phân biệt rõ quyền sở hữu với quyền kinh doanh; xác định DNNN là tổ chức kinh tế có quyền tự kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, trên cơ sở đó xây dựng các hình thức chế độ trách nhiệm; đồng thời bước đầu tiến hành thí điểm chế độ cổ phần hoá doanh nghiệp và xây dựng các tập đoàn doanh nghiệp.
Tuy vậy, theo đánh giá của các chuyên gia Trung Quốc, công cuộc cải cách DNNN Trung Quốc mới thực sự khởi sắc trong một vài năm trở lại đây, nhất là khi Trung Quốc tham gia vào WTO, với những cam kết phải cải tổ lại hệ thống DNNN. Bước ngoặt trong cải cách DNNN của Trung Quốc là việc thực hiện chủ trương mới thông qua những sáng tạo về chế độ doanh nghiệp, tận dụng đặc điểm tách rời quyền sở hữu với quyền kinh doanh làm cho doanh nghiệp trở thành chủ thể độc lập của thị trường; sắp xếp lại khu vực DNNN theo hướng thu hẹp phạm vi, giảm số lượng và tập trung dồn vào những lĩnh vực, ngành nghề quan trọng của nền kinh tế; cơ cấu lại quản lý nội bộ doanh nghiệp theo chế độ công ty phù hợp với cơ chế thị trường, đồng thời cải cách theo hướng tách nhà nước với doanh nghiệp, tách chức năng sở hữu với chức năng quản lý hành chính của nhà nước. Đặc biệt, Trung Quốc rất chú trọng đưa cơ chế cạnh tranh vào các ngành độc quyền bằng cách tạo cạnh tranh trong nội bộ ngành. Ví dụ, trong ngành giao thông thì tạo cạnh tranh giữa vận tải đường bộ, đường hàng không và đường sắt… Trong tiến trình cải cách doanh nghiệp, phân quyền là một chủ trương được Trung Quốc thực hiện có hiệu quả giúp doanh nghiệp có động lực để tăng cường năng lực cạnh tranh. Thực tế đã cho thấy, một khi các nhà quản lý DNNN được trao quyền tự chủ trong việc ra quyết định và vận hành doanh nghiệp trên thị trường, thì hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp được cải thiện đáng kể. Trung Quốc cũng đang hướng tới phương thức quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế; theo đó, nhiều doanh nghiệp đã được sắp xếp lại để niêm yết tại Uỷ ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc. Để xoá bỏ triệt để tình trạng các DNNN thua lỗ, vào đầu năm 2005, Quốc vụ viện Trung Quốc đã thông qua bản Kế hoạch chấm dứt hỗ trợ tài chính cho các DNNN làm ăn không hiệu quả. Theo Kế hoạch này, các DNNN làm ăn thua lỗ sẽ phải tuyên bố phá sản nếu không tự tìm được lối thoát. Trung quốc cũng đang đẩy mạnh việc biến các DNNN thành các công ty cổ phần nếu các doanh nghiệp này có khả năng niêm yết tại thị trường chứng khoán.
Điểm đáng chú ý trong quan điểm cải cách DNNN của Trung Quốc là khu vực nhà nước sẽ chỉ được tập trung ở những lĩnh vực có tính độc quyền tự nhiên (đường sắt, cung cấp điện,…) hay cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công quan trọng. Cùng với công cuộc cải cách chính phủ, Trung quốc đã có những thay đổi cơ bản trong mối quan hệ giữa chính phủ và các DNNN theo hướng chính phủ không can thiệp ở cấp vi mô, không làm thay và thay mặt cho doanh nghiệp. Chính phủ sẽ tăng cường sử dụng các công cụ luật pháp để giám sát, định hướng hoạt động của các doanh nghiệp thay vì việc sử dụng mệnh lệnh hành chính như trước đây. Thực tế trên cho thấy, cải cách DNNN của Trung Quốc là một quá trình thử nghiệm liên tục nhằm đem lại sức sống mới cho doanh nghiệp.
4- Cung ứng dịch vụ công
Nhìn chung, các dịch vụ công ở Trung Quốc chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của xã hội, nhất là trong thời kỳ áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch. Khi đó, chính phủ nước này không có những cơ chế khuyến khích đủ mạnh và năng lực tài chính cũng không đủ để cải thiện khu vực dịch vụ công. Giới lãnh đạo trong nước coi GDP là yếu tố biểu thị hiệu quả quan trọng nhất, vì thế nên hầu như chỉ quan tâm đến tăng trưởng GDP và không để ý tới nhu cầu của nhân dân đối với các dịch vụ công. Những lĩnh vực vẫn bị đánh giá còn tồn tại nhiều vấn đề nghiêm trọng nhất bao gồm y tế, giáo dục, và hạ tầng cơ sở như cung cấp điện, nước, đường xá, v.v. Bên cạnh đó, sự bất cân đối trong cung ứng dịch vụ công giữa các vùng khá nghiêm trọng. Do năng lực tài chính ở những vùng khác nhau cũng rất khác biệt, chất lượng cũng như các loại hình dịch vụ công cung cấp cho người dân tại từng địa phương đang tồn tại một khoảng cách lớn. Chẳng hạn như mức chi tiêu bình quân đầu người cao nhất của chính phủ cho giáo dục (ở Thượng Hải) trong năm 2005 lớn hơn mức thấp nhất (ở Tứ Xuyên) tới 6 lần; về y tế công, mức cao nhất (tại Bắc Kinh) lớn gấp 11 lần mức thấp nhất (tại Hồ Nam).
Khi Trung Quốc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc cung cấp các dịch vụ công có chất lượng tốt hơn ngày càng trở nên cấp bách và đã được đáp ứng ở một mức độ đáng ghi nhận. Chính phủ đã quan tâm nhiều hơn tới việc cung cấp dịch vụ công một cách bình đẳng bằng hệ thống thanh toán liên chính quyền, hỗ trợ những vùng lạc hậu cải thiện hạ tầng cơ sở của mình. Nguyên tắc này đã được định rõ trong Chiến lược 5 năm lần thứ 11. Chính quyền trung ương cũng có kế hoạch thiết lập cơ chế phối hợp giữa các vùng khác nhau, hỗ trợ hoà nhập vào thị trường dịch vụ trong nước. Cùng với thực hiện các cam kết quốc tế khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã và đang có kế hoạch mở cửa một số lĩnh vực dịch vụ công (như hàng không, y tế, và giáo dục...) cho sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức cung cấp dịch vụ quốc tế. Ví dụ, trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, sự tham gia của các công ty trong phát triển cơ sở hạ tầng ngày càng đáng kể và trở nên đa dạng, trong đó có một số công ty có khả năng cạnh tranh trên toàn thế giới. Điều này đã khiến chất lượng xây dựng cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt do không còn tình trạng độc quyền, các công ty phải cạnh tranh về giá cả, chất lượng, và tiến độ thi công để trúng thầu xây dựng các công trình.
Đối với lĩnh vực y tế công và giáo dục, Trung quốc đã có các chính sách thích hợp để cung cấp một cách có hiệu quả các dịch vụ này. Chính phủ đã ưu tiên phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm và bệnh nghề nghiệp, tăng hỗ trợ cho ngành dược, nhất là cho các ngành Trung y truyền thống, nâng cao khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế, đặc biệt quan tâm đến vấn đề an toàn lao động của người dân. Trong lĩnh vực giáo dục, các chủ trương lớn đã được đưa ra nhằm hiện đại hóa phương pháp giảng dạy, đặt ra cấp giáo dục phổ cập bắt buộc đối với độ tuổi mười lăm, tăng cường đào tạo hướng nghiệp với mục tiêu cải thiện trình độ học vấn của toàn dân nói chung và chú trọng đào tạo lao động chuyên nghiệp, lao động có trình độ quản lý cho các cơ quan chính phủ, Đảng và khu vực tư nhân.
Trong thời gian tới, Trung Quốc xác định còn nhiều thách thức cần nỗ lực vượt qua để cải thiện chất lượng dịch vụ công, đáp ứng những nhu cầu chính đáng của người dân. Cụ thể là phải xây dựng chính quyền định hướng dịch vụ và giảm thiểu sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ công; nhanh chóng mở cửa các ngành như cung cấp nước sạch, điện, giáo dục, y tế, v.v. để những công ty tư nhân có khả năng cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn tham gia thị trường.
II- NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA SỰ THAY ĐỔI THỂ CHẾ ĐẾN TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC
1- Môi trường đầu tư, thương mại được cải thiện
Những cải cách thể chế kinh tế trên đây đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và thương mại đã tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, ngày càng thông thoáng và bình đẳng ở Trung Quốc. Điều này, cùng với việc gia nhập WTO và tăng trưởng ổn định của nền kinh tế tạo cơ hội đầu tư và thị trường rộng lớn cho các doanh nghiệp toàn cầu, đã đưa Trung Quốc trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài kể từ 2003.
Tính đến cuối tháng 9/2006, đã có 480/500 công ty xuyên quốc gia mạnh nhất toàn cầu đầu tư vào Trung Quốc và Trung Quốc thực sự trở thành bộ phận quan trọng trong mắt xích ngành nghề toàn cầu. Tính đến nay, Trung Quốc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đứng đầu các nước đang phát triển 14 năm liên tục. FDI vào Trung Quốc từ năm 2003 đến nay đều đạt 50-60 tỷ USD/năm. năm 2005 FDI thực tế đạt 60,3 tỷ USD, đưa tổng số vốn đầu tư thực tế vượt 620 tỷ USD. Cơ cấu đầu tư nước ngoài ngày càng hoàn thiện, các hạng mục vốn và khoa học kỹ thuật được tăng cường, đầu tư ngành dịch vụ tăng nhanh, nhiều công ty xuyên quốc gia đến Trung Quốc thành lập tổng đại diện, trung tâm giao dịch và trung tâm nghiên cứu phát triển, tỷ lệ dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài tiếp tục gia tăng.
5 năm sau gia nhập WTO, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc từ vị trí thứ 6 đã vươn lên vị trí thứ 3 thế giới, với tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng năm vào khoảng 24,6%; Đặc biệt trong 4 năm gần đây, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Trung Quốc đều tăng trên 30%, từ 509,6 tỷ USD tăng lên 1.422,12 tỷ USD, vượt lên đứng thứ 3 thế giới. Năm 2003, Trung Quốc đạt được tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 851 tỷ USD, tăng 31,7%, vượt lên hàng thứ 4 thế giới; năm 2004, sau 3 năm gia nhập WTO, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt qua ngưỡng 1.000 tỷ USD, đạt 1.154,7 tỷ USD, vượt lên đứng thứ 3 thế giới. Năm 2005 đạt 1.422,12 tỷ USD, giữ vững vị trí thứ 3 toàn cầu. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, sau khi gia nhập WTO đến nay, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chiếm trên 90%, nhất là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm kỹ thuật cao mới chiếm tỷ lệ trong sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng. Năm 2006, ngoại thương của Trung Quốc đã đạt 1.760 tỷ USD và thặng dư thương mại 117,47 tỷ USD. Như vậy, với mức tăng trưởng dự kiến như trên, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước này sẽ vượt ngưỡng 2.000 tỷ USD trong năm 2007.
2- Năng lực cạnh tranh được tăng cường
- Cấp độ quốc gia: Với những thay đổi tích cực trong cải cách thể chế kinh tế, năng lực cạnh tranh của Trung Quốc đã gia tăng rõ rệt. Theo Niên giám năng lực cạnh tranh thế giới năm 2006, Trung Quốc đã xếp thứ 19 trên thế giới về năng lực cạnh tranh, nhảy vọt từ mức xếp hạng thứ 31 trong năm 2005. Niên giám 2006 đưa ra kết luận của mình dựa trên 4 yếu tố chính về cạnh tranh, là thành tích kinh tế, năng lực của chính phủ, năng lực kinh doanh và cơ sở hạ tầng, với mỗi yếu tố đóng góp 25% trong tổng xếp hạng. Cả 4 yếu tố này của Trung Quốc đều cho thấy có tiến bộ đáng kể, với năng lực kinh doanh có bước nhảy ấn tượng nhất, từ vị trí 50 trong năm 2005 lên 30 trong năm 2006. Thành tích kinh tế của Trung Quốc vẫn ở vị trí nổi bật, đứng thứ 3 trong danh sách mới, trong khi 2 yếu tố còn lại là năng lực chính phủ và cơ sở hạ tầng đứng ở vị trí 17 và 37.
- Cấp độ doanh nghiệp: Với những thay đổi tích cực trong thể chế kinh tế định hướng thị trường, đặc biệt là việc không ngừng cải cách môi trường kinh tế vĩ mô, Trung Quốc đã hỗ trợ khu vực doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế. Đối với khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được tạo điều kiện phát triển và ngày càng bình đẳng với DNNN. Xu hướng tập đoàn hoá bằng cách sáp nhập, mua lại các công ty nước ngoài sẽ dần dần tạo lập các tập đoàn kinh tế mạnh xuyên quốc gia của Trung Quốc có năng lực cạnh tranh cao. Bên cạnh đó, trong xu thế hợp tác và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Trung Quốc đã mở rộng được rất nhiều thị trường mới, như thị trường các nước ASEAN, Trung đông,… bên cạnh các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật, EU,…
Trên thị trường thế giới, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc thể hiện rõ nét nhất ở kết quả xuất khẩu ngày càng tăng, đặc biệt là trong những năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Trong năm 2003 và 2004, tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc đạt tới mức 35%- mức cao kỷ lục kể từ khi nước này bắt đầu công cuộc cải cách mở cửa. Theo dự đoán của Oxford Analytica, trong 5 năm tới, xuất khẩu của Trung Quốc gia tăng với tốc độ trung bình hàng năm khoảng 16%, và vào năm 2010 sẽ đạt quy mô tới 1632 tỷ USD. Nếu những dự đoán này là sát thực, thì đến đầu thập kỷ tới, Trung Quốc có thể trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
3- Hệ thống an sinh xã hội được đảm bảo
Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ lãnh đạo thứ tư của Trung Quốc rất quan tâm tới phát triển xã hội, đặc biệt chú trọng củng cố công bằng xã hội và nâng cao chất lượng quản lý. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 11 về Phát triển Kinh tế - Xã hội, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện đời sống của người dân, theo đuổi chính sách “coi con người là yếu tố hàng đầu”, đặt mục tiêu công bằng xã hội cao hơn mục tiêu tự do hóa chính trị. Các nhà hoạch định chính sách ở Trung Quốc tập trung phát triển một “xã hội hài hòa hóa”, nỗ lực để có được điều kiện công bằng và bình đẳng hơn giữa người giàu và người nghèo, giữa vùng thành thị và nông thôn,... Trong các chính sách cụ thể, vấn đề được ưu tiên giải quyết chính là mạng lưới an sinh xã hội, đặc biệt là chất lượng y tế, giáo dục, giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp bằng cách hạn chế số lao động bị dôi dư trong các DNNN, tăng cường hỗ trợ xã hội cho nhóm thất nghiệp, đồng thời tích cực cải thiện tính bình đẳng trong phân bổ thu nhập... Kết quả là, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Trung Quốc trong những năm gần đây đã kéo theo những kết quả cải thiện bền vững đối với điều kiện sống của người dân Trung Quốc. Theo số liệu mới nhất được công bố trong ấn phẩm Các chỉ số phát triển thê giới do Ngân hàng thế giới phát hành, số người sống trong cảnh nghèo cùng cực (có mức sống dưới 1 USD/ngày) tại Trung Quốc đã giảm 260 triệu, và đã có 300 triệu người Trung Quốc thoát nghèo so với năm 1990.
III - MỘT SỐ THÁCH THỨC MÀ TRUNG QUỐC PHẢI ĐỐI MẶT
Mặc dù đã đạt được những kết quả đầy ấn tượng về tăng trưởng kinh tế nhờ những thay đổi về thể chế kinh tế thị trường, Trung Quốc vẫn sẽ phải đương đầu với nhiều thử thách về hướng phát triển trong tương lai. Đó là các vấn đề như sự cách biệt ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị, nạn ô nhiễm môi trường gia tăng, thất nghiệp ở thành thị, thiếu mạng lưới an ninh xã hội, thiếu cơ sở hạ tầng,…
1- Bất bình đẳng giữa các vùng. Việc gia nhập WTO bên cạnh những lợi ích to lớn về kinh tế, đồng thời cũng đặt Trung Quốc trước thách thức lớn hơn về sự bất bình đẳng giữa các vùng: duyên hải, nội địa và vùng núi phía tây. Trung bình một người nông dân Trung Quốc nay có thu nhập 460 USD, trong khi thu nhập của một người dân thành thị là khoảng 1.500 USD. Trung quốc hiện có đến 800 triệu con người sống ở nông thôn. Chênh lệch giữa vùng nông thôn và thành thị ngày càng doãng rộng; đồng thời những hình thái đói nghèo thành thị mới đang xuất hiện trong khoảng 100 triệu người lao động ngụ cư không có việc làm ổn định và không được tiếp cận với các dịch vụ xã hội ở thành thị. Tính theo chỉ số Gini được các kinh tế sử dụng để định mức phân biệt về thu nhập, thì Trung Quốc đã ở mức báo động đỏ. Chỉ số Gini của Trung Quốc nay là 0,496, tức tình hình tồi tệ hơn cách biệt giàu - nghèo tại Mỹ. Bên cạnh đó, tăng trưởng gắn liền với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc cũng khiến nhiều người bị gạt ra khỏi mạng lưới an sinh xã hội. Điều này khiến yêu cầu cải thiện các cơ chế an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp và lương hưu ngày càng trở nên cấp bách.
2- Nguy cơ tăng trưởng quá nóng. Nền kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển quá nóng khiến nguy cơ sẽ xảy ra khủng hoảng không chỉ cho đất nước đông dân nhất thế giới này mà cả nền kinh tế toàn cầu. Lượng tiền mà các ngân hàng cho vay để đầu tư làm ăn đã quá lớn, lượng tiền đầu tư trực tiếp cả trong nước lẫn từ nước ngoài đổ vào Trung Quốc đã quá nhiều, lạm phát tiêu dùng đạt 2,7% trong tháng 2.2007 trong khi các con số về thặng du mậu dịch vẫn không ngừng tăng (riêng trong tháng 2/2007 là 23,8 tỷ USD). Sự tăng trưởng quá nóng này dẫn đến một số nguy cơ:
Thứ nhất, tăng trưởng nóng khiến mâu thuẫn cung cầu trong một bộ phận ngành năng lượng, nguyên vật liệu quan trọng và vận tải sẽ trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với thiếu thốn năng lượng ngày càng trầm trọng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định bền vững và sự vận hành bình thường của nền kinh tế.
Thứ hai, đầu tư quá nóng dẫn đến khả năng cung ứng năng lượng, nguyên vật liệu hết sức khó khăn, điều này làm cho giá năng lượng, nguyên vật liệu và tư liệu sản xuất cũng như giá vận chuyển dần tăng lên và trở thành áp lực làm tăng mặt bằng giá cả chung. Bên cạnh đó, đầu tư của ngành nhà đất xuất hiện tình trạng ảo, và có những "cơn sốt". Xét về kết cấu ngành nghề, ngành công nghiệp đầu tư tăng quá mạnh, ngành nông nghiệp và dịch vụ lại tăng trưởng chậm, tỷ trọng giảm. Kết cấu đầu tư bất hợp lý này sẽ không có lợi để thay đổi tình trạng trì trệ của các ngành.
Thứ ba, tình trạng mất cân bằng việc làm vẫn là mối lo ngày càng tăng cho chính phủ Trung Quốc. Tỷ lệ tăng việc làm mới giảm dần trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng. Nguyên nhân là do: (1) ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh nhưng khả năng thu hút việc làm lại rất yếu trong khi ngành dịch vụ có khả năng thu hút một lực lượng lớn lao động lại tăng trưởng chậm chạp, tỷ trọng trong kết cấu kinh tế thấp; (2) lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn quá lớn (tới 200 triệu người) trong khi khả năng thu hút việc làm ở các thành phố, thị trấn là hết sức có hạn, mỗi năm tỷ lệ tăng trưởng việc làm chỉ từ 3-4%.
3-Không còn là điểm thu hút đầu tư hàng đầu ở khu vực châu Á. Nguy cơ này đã bắt đầu hiển hiện do: (1) chi phí sản xuất kinh doanh ở Trung Quốc đang ngày càng tăng, bao gồm: tiền thuê mướn văn phòng, nhà xưởng, đất đai, chi phí sử dụng các tiện ích ở những trung tâm và đặc biệt là tiền lương đang tăng mạnh nhất và làm đau đầu các nhà đầu tư ở Trung Quốc. Mặc dù năng suất lao động của công nhân Trung Quốc cũng tăng lên, nhưng mức tăng này không tiến kịp mức tăng lương; (2) các nhà đầu tư quốc tế chuyển hướng đầu tư từ Trung Quốc sang các nước khác ở châu Á để phân tán rủi ro. Những rủi ro hàng đầu làm cho môi trường đầu tư ở Trung Quốc trở nên kém hấp dẫn bao gồm: việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ còn chưa được thực hiện đầy đủ; bất ổn xã hội ở các vùng nông thôn, nhất là ở các tỉnh miền Tây; nguy cơ đồng nhân dân tệ có khả năng tăng giá mạnh; (3) sự trỗi dậy của các thị trường khác ở châu Á. Bên cạnh đó, xuất khẩu - mảng quan trọng hàng đầu trong kinh tế Trung Quốc, cũng dự báo không duy trì được đà tăng trưởng ngoạn mục như bấy lâu nay. Những lo ngại khác trong nền kinh tế Trung Quốc là mức tiết kiệm quá cao, còn tiêu dùng quá thấp; mức thặng dư mậu dịch khổng lồ đang làm tràn ngập hệ thống ngân hàng với lượng tiền mà hệ thống này không thể quản lý nổi.
Một yếu tố khác làm cho môi trường đầu tư và kinh doanh của Trung Quốc kém hấp dẫn là việc kinh tế tư nhân vẫn chưa được đối xử thực sự bình đẳng. Mặc dù hiện nay kinh tế tư nhân Trung Quốc đã có vai trò và địa vị xứng đáng hơn trước trong nền kinh tế quốc dân, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như lịch sử, kinh tế tư nhân vẫn chưa được đối xử bình đẳng như kinh tế quốc doanh, bởi vậy chưa phát huy đầy đủ thế mạnh của kinh tế tư nhân. Thách thức của kinh tế tư nhân thể hiện trên những mặt như: khu vực kinh tế tư nhân chưa được phân phối công bằng nguồn tài nguyên chung của đất nước so với kinh tế quốc doanh. Hiện nay tỉ trọng gía trị sản lượng của kinh tế quốc doanh chỉ chiếm 1/3 GDP của cả nước trong khi kinh tế tư nhân đóng góp tới 2/3 GDP, nhưng họ chỉ nhận được có 1/3 nguồn tài nguyên nhà nước phân phối. Đây là sự bất công trong phân phối nguồn tài nguyên đất nước đối với kinh tế tư nhân, trong khi đó điều kiện mà ngân hàng đưa ra cho doanh nghiệp tư nhân vay vốn cũng rất ngặt nghèo. Tiếp đó, doanh nghiệp tư nhân vẫn bị ngăn cấm tham gia đầu tư và sản xuất trong một số ngành mà doanh nghiệp quốc doanh vẫn nắm độc quyền và kinh doanh không hiệu quả.
4- Là một thị trường khổng lồ tiêu thụ nguyên vật liệu của thế giới. Tuy chỉ đại diện cho 5% tổng giá trị kinh tế toàn cầu nhưng Trung Quốc lại trở thành một thị trường khổng lồ tiêu thụ nhiều nguyên vật liệu của thế giới (20% lượng aluminium và đồng; 30% lượng thép, sắt, than và 45% lượng xi măng cả thế giới sản xuất ra mỗi năm). Từ chỗ là một nước xuất khẩu năng lượng (than đá), nay Trung Quốc trở thành một trong 5 nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới. Vào năm 2020, Trung Quốc sẽ phải nhập đến 75% lượng dầu thô cần thiết, tức gần gấp hai lần hiện nay. Lúc ấy Trung Quốc sẽ tiêu thụ 10% tổng lượng dầu thô thế giới. Khi cỗ máy kinh tế Trung Quốc tăng tốc thì nước này cũng xả ra một lượng khí CO2 độc hại hạng nhì thế giới, chỉ sau Mỹ. Theo Ngân hàng thế giới, lượng CO2 mà Trung Quốc thải ra đã tăng 33% trong thời gian 10 năm, tính đến cuối năm 2002. Điều này đặt ra cho Chính phủ Trung Quốc một bài toán hóc búa về hài hoá hoá giữa sự tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.
