Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Các loại hình doanh nghiệp

Nhìn lại tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước qua số liệu điều tra 2001- 2005

06/08/2010 - 312 Lượt xem

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là giải pháp quan trọng nhất của quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Ngay trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương và nhiều biện pháp chỉ đạo triển khai thực hiện rất tích cực tiến trình đổi mới, sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước này. Cổ phần hoá các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn đã được coi như là một giải pháp có tính chất chiến lược nhằm khắc phục những mặt khiếm khuyết, yếu kém vốn có của cơ chế bao cấp trong doanh nghiệp; huy động được thêm vốn, tạo được động lực và cơ chế quản lý năng động để phát triển, nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đại hôi IX của Đảng đề ra mục tiêu là trong 5 năm 2001 – 2005 phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn…

Thực hiện theo chủ trương này từ 2001 đến 2005 số doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá và trở thành các công ty cổ phần có vốn nhà nước đã tăng lên khá nhanh cả về số lượng công ty, lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hằng năm của Tổng cục Thống kê từ năm 2000 cho thấy, từ số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước chỉ có 305 doanh nghiệp trong năm 2000 đã lên 470 doanh nghiệp trong năm 2001, tăng 54,1%; lên 557 doanh nghiệp trong năm 2002, tăng 18,7%; lên 669 doanh nghiệp trong năm 2003, tăng 19,9%; lên 815 doanh nghiệp trong 2004, tăng 21,8% và lên 1.096 doanh nghiệp trong năm 2005, tăng 34,5%. Sau 5 năm đã tăng thêm 791 doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, tăng gấp gần 3,6 lần và bình quân mỗi năm tăng 158 doanh nghiệp, tương ứng với tốc độ tăng bình quân là 29,8%/năm.

Về số lao động trong các công ty cổ phần có vốn nhà nước đến 31 tháng 12 hằng năm đã từ gần 62 ngàn người cuối năm 2000 lên gần 281 ngàn người cuối năm 2005, sau 5 năm đã tăng thêm gần 219 ngàn lao động, tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là hơn 4,5 lần và bình quân mỗi năm đã tăng 35,9%.

Về vốn sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần có vốn nhà nước đến 31 tháng 12 hằng năm đã từ 10.417 tỷ đồng thời điểm cuối năm 2000 lên 109.520 tỷ ở thời điểm cuối năm 2005; sau 5 năm đã tăng thêm 99.103 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng lên 19.821 tỷ; tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là gấp 10,5 lần và bình quân mỗi năm tăng 65,6%.

Về giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước có đến 31 tháng 12 hằng năm đã từ 2.947 tỷ đồng vào thời điểm cuối năm 2000 lên 25.077 tỷ cuối năm 2005; sau 5 năm đã tăng thêm 22.130 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng 4.426 tỷ; tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là hơn 8,5 lần và bình quân mỗi năm tăng 59,9%.

Về doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần có vốn nhà nước hằng năm đã từ 10.275 tỷ đồng năm 2000 lên 103.887 tỷ trong năm 2005; sau 5 năm đã tăng thêm 93.592 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng 18.718 tỷ; tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 10,1 lần và bình quân mỗi năm tăng lên 61,1%.

Với tốc độ tằng bình quân hằng năm về số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước (DNNN cổ phần hoá) chỉ ở mức tăng 29,8% và về số lao động chỉ tăng 35,9%/năm, nhưng các chỉ tiêu về vốn, tài sản và kết quả sản xuất kinh doanh đã tăng lên với tốc độ gấp đôi. Cụ thể tốc độ tăng bình quân về vốn là 65,6%/năm, tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn đã tăng 59,9%/năm và doanh thu thuần sản xuất kinh doanh đã tăng 61,1%/năm. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá năng lực sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh doanh đã được tăng lên rất đáng kể. Từ đó có thể đánh giá được rằng, mục tiêu quan trọng nhất của tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đặt ra là nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã đạt được ở mức rất cao.

Cùng với tiến trình cổ phần hoá, sắp xếp lại, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần hoá là chủ yếu đã làm cho số doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn giảm đi một cách tương ứng. Từ số doanh nghiệp nhà nước có ở thời điểm 31/12/2000 là 5.759 doanh nghiệp đến 31/12/2005 chỉ còn 4.086 doanh nghiệp, đã giảm đi 1.673 doanh nghiệp, bình quân mỗi năm đã giảm đi 335 doanh nghiệp; tương ứng với tốc độ giảm chung trong 5 năm là 29,1% và bình quân mỗi năm đã giảm 6,6% số doanh nghiệp.

Do số doanh nghiệp được cổ phần hoá ngày càng tăng cao và số doanh nghiệp nhà nước chưa cố phần hoá ngày càng giảm đi nên tỷ trọng các công ty cổ phần có vốn nhà nước đã chiếm ngày càng lớn, từ 5,3% vào thời điểm cuối năm 2000 đã lên chiếm 26,8% đến thời điểm cuối năm 2005 và ngược lại doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn đã từ chiếm 94,7% cuối năm 2000 xuống chỉ còn 73,2% đến cuối năm 2005.

Về số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm đi sau 5 năm, nhưng không nhiều, chỉ giảm 47.672 người và bình quân mỗi năm giảm 9.534 người; tương ứng với tỷ lệ giảm đi sau 5 năm là 2,3% và bình quân giảm 0,3%/năm. Tuy nhiên, về các chỉ tiêu vốn cho sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định & đầu tư tài chính dài hạn, doanh thu thuần từ sản suất kinh doanh của doanh nghiệp khu vực kinh tế 100% vốn nhà nước sau 5 năm đẩy mạnh cổ phần hoá và sắp lại không những không giảm mà còn được tăng lên khá lớn:

- Vốn sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước từ 670.234 tỷ đồng có đến cuối năm 2000 đã lên 1.338.255 tỷ, tăng lên 668.021 tỷ, bình quân mỗi năm tăng 133.604 tỷ; tương ứng với tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 99,7% và bình quân mỗi năm tăng 14,9%.

- Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp nhà nước từ 259.856 tỷ đồng có đến cuối năm 2000 đã lên 487.210 tỷ đến thời điểm cuối năm 2005, sau 5 năm đã tăng thêm 257.354 tỷ, bình quân mỗi năm tăng 51.471 tỷ; tương ứng với tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 112,0% và bình quân mỗi năm tăng 16,5%.

- Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước từ 444.673 tỷ đồng trong năm 2000 đã lên 838.396 tỷ trong năm 2005, sau 5 năm tăng thêm 393.723 tỷ, bình quân mỗi năm tăng lên 78.745 tỷ; tương ứng với tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 88,5% và bình quân mỗi năm tăng 14,0%.

Một số số liệu cụ thể về số lượng doanh nghiệp nhà nước và số công ty cổ phần có vốn nhà nước cũng như các chỉ tiêu vốn, lao đông, tài sản và doanh thu của từng loại doanh nghiệp từ năm 2000 đến 2005 như sau:

Một số chỉ tiêu về doanh nghiệp NN và công ty cổ phần có vốn NN

2001

2002

2003

2004

2005

- Số doanh nghiệp nhà nước (DN)

5355

5363

4845

4596

4086

- Số công ty CP có vốn nhà nước (DN)

470

558

669

815

1096

- Số lao động DN nhà nước (người)

2114324

2259858

2264942

2249902

2040859

- Số lao động CTCP có vốn NN (người)

114266

144347

160879

184050

280778

- Tổng số vốn DN nhà nước (tỷ VNĐ)

781705

858560

932942

1128483

1338255

- Tổng vốn CTCP có vốn NN (tỷ VNĐ)

27211

39161

56094

76992

109520

- Giá trị TSCĐ DNNN (tỷ VNĐ)

263153

309084

332077

359952

487210

-Giá trị TSCĐ CTCPcó vốn NN (tỷVNĐ)

7390

9937

12291

21180

25077

- Doanh thu thuần DN nhà nước (tỷVNĐ

460029

611167

666202

708045

838396

- D.thu thuần CTCP có vốn NN (tỷVNĐ

21934

29364

42535

62688

103867

Như vậy có thể thấy rằng, chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn từ nhiều nguồn khác nhau nhằm tạo động lực và cơ chế quản lý năng động sáng tạo, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và làm ăn có hiệu quả, trong 5 năm từ 2001 đến 2005 đã đạt được những mục tiêu và kết quả rõ rẹt. Đó là số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đã tăng lên khá nhanh cả về số lượng doanh nghiệp, lẫn năng lực sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt đông. Đồng thời, đối với các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn không những chỉ giảm được số lượng cần thiết mà năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn lại này cũng được tăng lên đáng kể cùng với các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá. Điều đó đã khẳng định rằng, chủ trương cổ phần hoá, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước của chúng ta trong những năm qua là hoàn toàn đúng đắn và đạt kết quả đáng ghi nhận.

Mặc dù quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn trong những năm qua đã đạt được những thành quả đáng khích lệ như các số liệu thống kê thực tế đã chỉ rõ ở trên, thế nhưng cho đến nay con số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước vẫn còn là một con số khá lớn. Vì vậy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn cần phải được tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng thêm đối tượng để thu hút thêm nhiều vốn hơn nữa từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đại hội X của Đảng cũng đã khẳng định lại chủ trương này, trong mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006 – 2010 đã ghi là "Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá" và trong các chính sách và giải pháp nói rõ thêm là "Khuyến khích phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và phát triển các doanh nghiệp cổ phần mới, để hình thức kinh tế này trở thành phổ biến, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế nước ta". Từ đó có thể thấy rằng, cổ phần hoá, đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục là chủ trương, giải pháp xuyên suốt của quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta thời kỳ hội nhập mới sắp tới. Tuy nhiên, trong quá trình cổ phần hoá và tổ chức đấu giá để phát hành cổ phiếu ra ngoài doanh nghiệp nhằm thu hút thêm nhiều nguồn vốn hơn nữa từ các thành phần kinh khác ở trong nước và ngoài nước lại đang phát sinh không ít vấn đề phức tạp, thậm trí nổi cộm làm cho nhiều người còn băn khoăn do đã có các hiện tượng lợi dụng chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để biến tài sản chung của nhân dân thành tài sản riêng của cá nhân hoặc bộ phận nhóm nhỏ người dưới nhiều hình thức rất tinh vi. Trong đó ít nhất đã có một ví dụ rất điển hình như chúng ta đều biết là vụ tổ chức đấu giá cổ phiếu lần đầu ở Công ty xuất nhập khẩu Intermex tại phiên ngày 12/4/2007 ở Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vừa qua. Đây là một vụ tổ chức đấu giá cổ phiếu mà dư luận quần chúng và báo chí đã phản ánh và nghi ngờ đã có các khuất tất bên trong của quá trình thực hiện cổ phần hoá và đấu giá cổ phiếu này.

Do vậy, cho dù cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trưởng hoàn toàn đúng đắn đã được khẳng định từ thực tế trong những năm qua và là một trong những giải pháp có hiệu quả nhất trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhằm tăng cường năng lực hoạt động, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động sáng tạo, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và làm ăn có hiệu quả. Thế nhưng, những bài học từ mặt trái của quá trình cổ phần hoá đã rút ra được lại cho thấy, trong lộ trình tiếp tục thực hiện chủ trương này trong thời gian tới có lẽ là cần phải được tiến hành cẩn trọng hơn nữa thì mới có thể tránh được những hiện tượng tiêu cực có thể còn xảy ra tương tự. Một trong những vấn đề mấu chốt cần hết sức thận trọng đó có lẽ không có gì khác hơn là phải làm thế nào đánh giá được đúng giá trị thực của doanh nghiệp cũng như việc công khai minh bạch mọi thông tin có liên quan là điều quan trọng hàng đầu. Mặt khác, để việc xác định được đúng giá trị thực của doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá này thì nguyên tắc thị trường có lẽ phải luôn luôn được đặt lên hàng đầu, không được bất cứ ai áp đặt chủ quan, bóp méo sự thật, kể cả trong việc xác định giá trị sử dụng đất cũng như vị thế, thương hiệu của doanh nghiệp đều phải được đưa lên bàn cân của nguyên tắc thị trường.
Nguồn: Tổng cục Thống Kê