
Tổng hợp
Bài toán "hàng hóa công": Phép thử mô thức lãnh đạo Trung Quốc
07/12/2010 - 294 Lượt xem
Bên kia bờ Đại Tây Dương, trước những cơn sóng khủng hoảng dồn dập bên trong từ kinh tế đến chính trị, cường quốc số một hành tinh nghiêng ngả. Bên đây Thái Bình Dương, phục hồi nhanh sau cơn bão tài chính, cằm cờ tăng trưởng khu vực, Trung Quốc làm cho các nhà quan sát dù khó tính nhất cũng phải đồng ý: cán cân quyền lực đang dịch chuyển, từ dần dần sang rõ nét.
Sức mạnh dựa trên chỉ số thống kê, Trung Quốc đang thách thức Mỹ. Góc nhìn quyền lãnh đạo, Bắc Kinh từ lâu đã khẳng định vai trò của mình qua các tuyên bố và hành xử nước lớn. Về chính sách, nước này đang có những bước khá hệ thống hướng đến mục tiêu tăng cường ảnh hưởng. Nhưng Trung Quốc chỉ có thể là nhà lãnh đạo nếu được chấp nhận trong vai trò lãnh đạo. Hành xử đế quốc nhấn mạnh can thiệp, trên hết qua quân đội, mục tiêu tối thượng phục vụ lợi ích quốc gia. Bá quyền trong tư thế chèn ép nước khác, nếu cần bằng trừng phạt hay vũ lực. Lãnh đạo, ngược lại, đi tìm sự công nhận của các thành viên và dẫn dắt họ giải quyết các vấn đề mà cộng đồng đang đối mặt. Trong lý luận hệ quốc tế, quan điểm "ổn định dựa trên bá quyền" (Hegemonic Stability Theory) - từ nhiều năm nay- là tâm điểm của giới học thuật. Phiên bản cứng của lý thuyết này kết luận, sự thiếu vắng một cường quốc mang tính lãnh đạo trong những thời điểm quyết định sẽ dẫn đến hỗn loạn và đổ vỡ. Chuyển dịch quyền lực giữa Anh và Hoa Kỳ những năm đầu thế kỷ 20 là thí dụ. Khi một bên đã mất dần khả năng lãnh đạo, một bên thì chưa sẵn sàng đảm nhận vị trí đứng đầu, kết quả là cuộc đại khủng hoảng toàn cầu 1930. Phiên bản mềm đi gần hơn, cho rằng, mọi quyết định hợp tác quốc tế đa phương luôn cần một lãnh đạo dẫn dắt. Vai trò của "anh cả", quan trọng hơn cả, vì là người đứng ra giải quyết bài toán "hàng hóa công". Hàng hóa này, một mặt, rất cần cho việc thúc đẩy hợp tác, nhưng đắt, và ít cá nhân nào có khả năng chi trả, hay chấp nhận chi trả một mình. Mặt khác, vì mang tính chất "công", nó không là sở hữu riêng của cá nhân, mà phục vụ lợi ích chung cả cộng đồng. Để hợp tác đến thành công, người lãnh đạo không những phải đủ sức quy động các bên tham gia kiến tạo, mà còn phải "đứng mũi, chịu sào" các phí tổn của loại hàng hóa này. Có thể kể đến vai trò của Hoa Kỳ trong trong công cuộc tái thiết châu âu với kế hoạch Marshall hay Đức quốc và Pháp trong kế hoạch thống nhất EU. (i) Tự do thương mại. Nếu có một nét son nào chấm phá mối quan hệ Trung Quốc với các nước ASEAN trong thập niên vừa qua, thì chắc hẳn đó là sự mở rộng thương mại từ góc độ song phương giữa các quốc gia, đến đa phương thể hiện qua quá trình hình thành khu vực vùng về tự do mậu dịch, mà trong đó việc định chế khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA, ASEAN China Free Trade Agreement) ở vị trí tâm điểm. Về phương diện kinh tế, đây là vùng tự do thương mại lớn nhất toàn cầu dựa trên dân số các nước thành viên (1,9 tỉ người), vượt qua NAFTA (North American Free Trade Agreement) và đứng thứ ba về sản lượng trao đổi chỉ sau thị trường chung châu Âu và Bắc Mỹ. Hơn nữa nó lưu chuyển một xung lực mạnh mẽ của kinh tế thế giới với Trung Quốc, cùng các con rồng, con hổ mới nổi. Xét về mặt địa chính trị, ý nghĩa thứ hai vượt qua những con số. Một nhà quan sát nhận định, ACFTA hơn là một kế hoạch tự do thương mại. Về căn bản, đó là một dự án "chính trị" của người "khổng lồ" nhằm thiết chế hóa một môi trường khu vực ổn định, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế của toàn vùng. (ii) Ổn định tình hình tài chính khu vực. Quyết định không phá giá đồng tệ sau khủng hoảng châu Á năm 1997, Trung Quốc đánh dấu mốc quan trọng trong việc xây dựng vai trò người "đảm bảo ổn định". Sự chuyển biến trong cách tiếp cận của lãnh đạo Bắc Kinh trước sáng kiến Chiang-Mai (nhằm thiết lập một mạng lưới hỗ trợ tài chính thông qua các hợp đồng giao dịch hối đoái - "currency swap" giữa các nước ASEAN và nhóm 3 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) trong thời gian những năm gần đây mở đường sâu hơn để nước này tham gia vị trí chủ đạo trong tiến trình hợp tác tài chính khu vực. Năm 2009, như một câu trả lời trước khủng hoảng thế giới, kế hoạch đa phương hóa sáng kiến Chiang Mai được tiến hành, Nhật Bản và Trung Quốc là hai tác nhân đóng góp chính. Mặc dầu tiên đoán sự hình thành một Quỹ tiền tệ châu Á trong tương lai, cơ chế đủ sức song hành và bổ sung Quỹ tiền tệ thế giới IMF, còn phụ thuộc nhiều vào nhiều yếu tố - trong đó quan trọng nhất là làm sao dẹp bỏ bất đồng giữa Tokyo và Bắc Kinh để cùng thúc đẩy hợp tác - nhưng có thể nói Bắc Kinh đã đạt thành công nhất định trong hồ sơ này từ năm 1997. (iii) Quản trị sông Mekong. Việc Trung Quốc cho xây dựng hàng loạt đập trên thượng nguồn, mà mới đây nhất là đập Tiểu Loan công suất 4.200 MW, cao nhất thế giới (292m), làm dấy lên trong giới khoa học những lo ngại về ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn nước, nhất là khu vực hạ lưu. Theo một tính toán của tạp chí Yale Global, hiện đã có 18 đập nước đã, đang và dự kiến xây dựng trên suốt chiều dài 4.350km. "Nguyên tắc tuyệt đối chủ quyền lãnh thổ" mà các nước thượng nguồn thường viện dẫn để lập luận, nhấn mạnh tính bất khả xâm phạm về quyền sử dụng nguồn nước của quốc gia. Trong khi đó, các quốc gia hạ nguồn đặt câu hỏi ngược, vì sao mỗi quốc gia có thể cắt rời từng mảnh để xem đó là của riêng nhà mình, trong khi dòng sông là tài sản chung? Dựa trên lập luận đó, theo họ, một trách nhiệm liên đới với cộng đồng các quốc gia thành viên lân cận phải được đặt lên thành điều kiện hành xử mang tính nguyên tắc. Hoạt động của Uỷ hội sông Mekong (MRC) do Liên Hiệp Quốc tổ chức từ năm 1970 với mục tiêu phát triển và khai thác sông Mekong bền vững, phần nào còn rất hạn chế. Lý do chính là Uỷ ban này chỉ gồm các nước hạ du là Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, mà thiếu vắng hai nước chủ chốt ở thượng nguồn là Myanmar và Trung Quốc. Tháng 4 vừa qua, tại Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về sông Mekong, Trung Quốc đồng ý cung cấp các dữ liệu thủy văn từ hai đập Cảnh Hồng và Mạn Loan của nước này trên thượng nguồn. Tuy vậy, sẽ còn cách một bước khá xa để nói về với một cơ chế quản trị chung dòng Mekong. (iv) Tranh chấp Biển Đông. "Chính sách Biển Đông" của Bắc Kinh đang là đề tài gây nhiều tranh cãi. Khác với nhận định đầu 2002, khi Tuyên bố về quy tắc ứng xử biển Đông được hình thành, tiên đoán về một trật tự vùng mới, trong đó Bắc Kinh là người đứng ra chủ trì và phân xử xung độ ngay cả khi vấn đề đó có liên quan trực tiếp đến cá nhân mình, thì những hành xử gần đây của Trung Quốc trong hồ sơ này gây nhiều phản ứng trái chiều. Thái độ lúc mềm mỏng, lúc cứng rắn với từng quốc gia, diễn ra trong từng diễn đàn, từng tình huống dẫn đến cảm giác sự không minh bạch về chính sách, và tạo nên những tiên đoán khác nhau từ các nước liên quan. Một quy tắc ứng xử "Biển Đông" mới bao gồm a) tất cả các bên tham gia, b) quy định về quy tắc tranh chấp lãnh thổ, lẫn quyền lưu thông trên biển, c) giải quyết xung đột trên phương thức hòa bình và d) mang tính pháp lý ràng buộc, sẽ là một giải pháp tiệm cận gần nhất với lợi ích của từng quốc gia. Trong trường hợp ngược lại, nếu Trung Quốc tiếp tục giữ cách thức giải quyết theo cách song phương, hay sử dụng ưu thế quyền nước lớn, việc các nước đi gần hơn với các cường quốc bên ngoài đề đảm bảo lợi ích là không thể tránh khỏi. Lúc đó, nước nào có khả năng cung cấp "hàng hóa công" trong việc đảm bảo giải pháp công bằng ở Biển Đông sẽ được các nước trong vùng ưu tiên ủng hộ. Phân tích các hồ sơ nóng khu vực cho thấy một bức tranh với nhiều gam màu pha lẫn. Màu sáng của sự hợp tác trong địa hạt tài chính kinh tế, với Trung Quốc trong vai trò lãnh đạo. Người lãnh đạo này, tuy vậy, trong nhiều hồ sơ khác vẫn đang trong thế lưỡng nan giữa cân bằng lợi ích quốc gia và thúc đẩy giải quyết các vấn đề khu vực hay quốc tế. Lịch sử chuyển đổi quyền lực thế giới cho thấy: thứ nhất, lãnh đạo cần có một thái độ lãnh đạo. Hay nói đơn giản, đàn anh thì phải có thái độ kể cả. Thứ hai, cường quốc muốn thành lãnh đạo không chỉ dựa trên chỉ số sở hữu sức mạnh, mà còn phải đủ sức đóng vai trò dẫn dắt. Nhắc lại: lãnh đạo khác đế quốc và bá quyền ở đặc điểm "đứng mũi, chịu sào" trong việc cung cấp "hàng hóa công" và huy động các thành viên giải quyết các vấn đề cộng đồng đang đối mặt. Trên ý nghĩa đó, tạo dựng giải pháp hợp tác chung trong các hồ sơ còn giang dở sẽ là phép thử đầu tiên về khả năng cũng như ý muốn đảm nhận vai trò lãnh đạo vùng của Trung Quốc trong tương lai.
Vậy dưới góc nhìn trên, Trung Quốc đã sẵn sàng đảm nhận vai trò nhà lãnh đạo? Ít nhất trong khu vực ảnh hưởng truyền thống Đông Á và Đông Nam Á, đánh giá Trung Quốc trong việc cung cấp "hàng hóa công" qua các hồ sơ quan trọng của vùng cho thấy: một trả lời khẳng định hay phủ định câu hỏi trên là không đơn giản.
Nguồn: Vietnamnet
