Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tái cấu trúc nền kinh tế

Tái cơ cấu nền kinh tế nhìn từ hệ thống

10/04/2012 - 435 Lượt xem

Báo Đầu tư lần lượt đăng tải các bài viết, ý kiến góp ý và rất mong tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp của độc giả.

Tái cơ cấu kinh tế là gì?

Theo lý thuyết, tái cơ cấu kinh tế là quá trình phân bố lại các nguồn lực trên phạm vi quốc gia và toàn bộ nền kinh tế để nâng cao hiệu quả chung. Kết quả của tái cơ cấu kinh tế là hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn.

Quá trình tái cơ cấu kinh tế nói trên diễn ra trong trạng thái tĩnh và trạng thái động.

Ở trạng thái tĩnh, tái cơ cấu là làm cho các nguồn lực hiện có được sử dụng có hiệu quả hơn, lao động có năng suất cao hơn và từ đó, năng lực cạnh tranh cũng được cải thiện hơn (đây gọi là hiệu quả kỹ thuật).

Ở trạng thái động, hiệu quả sử dụng các nguồn lực, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh được cải thiện (gọi là hiệu quả phân bố) nhờ dịch chuyển và phân bố lại nguồn lực quốc gia, giữa các ngành, lĩnh vực khác nhau theo tín hiệu của thị trường hoặc theo chỉ dẫn của các chính sách có liên quan.

Các nhân tố sản xuất phải được phân bố và dịch chuyển từ ngành, từ hoạt động kinh doanh có năng suất thấp sang các ngành, các hoạt động kinh doanh có năng suất lao động cao hơn; lao động sẽ được phân bố và chuyển dịch đến các ngành, các vùng và các doanh nghiệp có tiền lương cao hơn; và đất đai, tài nguyên cũng phải được phân bố cho nhà đầu tư, dự án sử dụng có hiệu quả cao hơn.

Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế bao gồm các bộ phận hợp thành sau đây:

- Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, mà trọng tâm là các ngân hàng thương mại;

- Tái cấu trúc thị trường chứng khoán và các định chế tài chính;

- Tái cơ cấu đầu tư, mà trọng tâm là đầu tư công;

- Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đồng thời, phát triển mạnh về quy mô và nâng cao chất lượng doanh nghiệp dân doanh;

- Tái cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế theo hướng cơ cấu lại các ngành sản xuất và dịch vụ phù hợp với các vùng, điều chỉnh chiến lược thị trường, tăng nhanh giá trị nội địa và giá trị gia tăng của sản phẩm.

Nội dung tái cơ cấu kinh tế

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, trong thời gian qua, Chính phủ đã nghiên cứu, đã và đang chuẩn bị thông qua các đề án, đồng thời, bước đầu thực hiện một số giải pháp tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, mà trọng tâm là các ngân hàng thương mại, tái cơ cấu thị trường chứng khoán và các định chế tài chính.

Trong đó, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán và các định chế tài chính là để loại bỏ các nguy cơ mất an toàn đối với hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nói chung, đồng thời, tăng cường năng lực trên tất cả các mặt và hiệu quả hoạt động của từng thành viên và của cả hệ thống, làm cho hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường chứng khoán thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng trung gian tài chính (tức là huy động và phân bố vốn từ người tiết kiệm sang người đầu tư, chuyển dịch vốn từ ngành và doanh nghiệp kém hiệu quả sang các ngành và doanh nghiệp có hiệu quả cao hơn) và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình.

Như vậy, kết quả của tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường chứng khoán là nhằm làm cho thị trường vốn hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn. Đó là một trong các điều kiện không thể thiếu, vừa thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế ở cả trạng thái tĩnh và trạng thái động. Vì vậy, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường chứng khoán là nhiệm vụ đầu tiên phải thực hiện của của quá trình tái cơ cấu kinh tế.

Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, mà trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước, kết hợp với những giải pháp trước mắt để thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, sẽ nhanh chóng cải thiện hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước, qua đó, góp phần cải thiện hiệu quả kỹ thuật chung của nền kinh tế; đồng thời, sẽ thúc đẩy cơ cấu lại cơ cấu ngành gắn với vùng kinh tế.

Hiện nay, đầu tư nhà nước chiếm gần 40% tổng đầu tư xã hội; các doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 27% tổng tín dụng, 39% tổng số vốn kinh doanh và 45% vốn cố định của khu vực doanh nghiệp. Hiệu quả của đầu tư nhà nước thấp và đang có xu hướng giảm; hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước cũng thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp khác; đóng góp của doanh nghiệp nhà nước nói chung cho phát triển kinh tế của đất nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực hiện có...

Trên thực tế, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công và hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán có liên quan chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Vì vậy, việc tái cơ cấu bốn lĩnh vực nói trên là bổ sung cho nhau, đang và sẽ được thực hiện đồng thời.

Tái cơ cấu ngành kinh tế

Tái cơ cấu ngành kinh tế sẽ tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế trên ba phương diện.

Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ theo hướng giảm dần tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tương ứng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; Hai là, chuyển dịch cơ cấu nội bộ từng ngành, chuyển đổi từ tiểu ngành, sản phẩm hoặc công đoạn sản xuất có công nghệ thấp, thâm dụng nhiều lao động kỹ năng thấp, năng suất thấp và giá trị gia tăng thấp sang tiểu ngành, sản phẩm hoặc công đoạn sản xuất có hàm lượng khoa công công nghệ cao, năng suất và giá trị gia tăng cao hơn; đồng thời kết nối vào mạng sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu; qua đó, mở rộng và phát triển thị trường, góp phần tăng trưởng kinh tế; Ba là, chuyển dịch trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh của kinh tế nước ta lên mức cao hơn.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế định hướng theo ngành ưu tiên phát triển là một trong nội dung cơ bản cơ cấu kinh tế nội bộ ngành. Theo cách đó, Chính phủ chủ động xác định danh mục ngành có lợi thế cần ưu tiên phát triển và đề ra các giải pháp chính sách tương ứng để huy động và lôi kéo các nguồn lực cần thiết triển các ngành ưu tiên đó. Bên cạnh chuyển dịch “tuần tự, tiệm tiến”, cần thực hiện các giải pháp “tăng tốc, đột phá” đối với một số ngành, nhất là những ngành mà khoa học công nghệ thay đổi nhanh chóng và liên tục.

Tái cơ cấu kinh tế vùng là khuyến khích và tạo điều kiện để các địa phương, các vùng phát huy và tận dụng được lợi thế của mình nhằm phát triển kinh tế địa phương, kinh tế vùng; đồng thời, có sự kết hợp, tập trung phát triển một số ngành có lợi thế trên một số vùng lãnh thổ nhất định, tạo thành động lực tăng trưởng có tác động lan tỏa và lôi kéo phát triển của cả vùng và nền kinh tế.

Như vậy, tái cơ cấu ngành kinh tế và vùng kinh tế là nhân tố chính, vừa trực tiếp cải thiện hiệu quả phân bố của nền kinh tế, vừa thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế năng động và linh hoạt hơn, có năng lực cạnh tranh và tiềm năng phát triển cao hơn.

Tóm lại, sáu bộ phận hợp thành nội dung cơ bản của tái cơ cấu kinh tế có sự liên quan và kết nối với nhau thành hệ thống, phối hợp và bổ sung cho nhau, cùng tác động theo hướng liên tục và không ngừng nâng cao hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bố của nền kinh tế, qua đó, hình thành cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành và vùng kinh tế) năng động và hợp lý hơn, năng lực cạnh tranh và tiềm năng phát triển cao hơn.

Nguồn: Đầu tư