
Tổng hợp
Tình hình kinh tế thế giới tháng 8/2014: Đón nhận nhiều tín hiệu tích cực
18/09/2014 - 286 Lượt xem
1. Tình hình kinh tế thế giới tháng 8/2014
Những thông tin mới nhất cập nhật trong tháng 8/2014 cho thấy tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Nền kinh tế Mỹ, châu Âu và Trung Quốc có dấu hiệu phục hồi nhưng không bền vững. Kinh tế Nhật Bản đón nhận nhiều tín hiệu tích cực do những chính sách hiệu quả của Chính phủ. Ngoài ra, căng thẳng địa chính trị leo thang tại một số khu vực trên thế giới và bế tắc tại Ukraine gia tăng càng khiến phương Tây đẩy mạnh trừng phạt kinh tế Nga có ảnh hưởng đến tình hình kinh tế thế giới tháng 8/2014.
Kinh tế Mỹ tháng 8/2014 có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ trong tháng 7/2014 tăng 0,1% Tỷ lệ thất nghiệp tháng 7/2014 tăng lên 6,2% do số người tham gia vào lực lượng lao động nhiều hơn. Tỷ lệ người dân đang trong độ tuổi lao động đã tăng nhẹ lên 62,9% so với 62,8% trong tháng 6/2014 . Bên cạnh đó, chỉ số nhà Quản trị mua hàng (PMI) của nền kinh tế này cũng giảm xuống mức 55,8 điểm trong tháng 7/2014 so với mức 57,3 điểm trong tháng 6/2014 . Thâm hụt thương mại trong tháng 6/2014 giảm 7% xuống 41,5 tỷ USD so với mức 44,7 tỷ USD của tháng 5/2014 và ghi nhận mức mức thấp nhất kể từ tháng 1/2014. Nhập khẩu giảm 1,2% xuống 237,4 tỷ USD, trong đó, nhập khẩu xăng dầu giảm xuống 27,4 tỷ USD.
Trong tháng 8/2014, kinh tế châu Âu vẫn tiếp tục phục hồi song với tốc độ không như mong đợi. Tăng trưởng GDP trong quý II/2014 của khu vực Eurozone không đổi so với quý I/2014, trong khi GDP của khu vực EU 28 chỉ tăng 0,2% so với quý trước. So với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng trưởng GDP khu vực Eurozone là 0,7% và các nền kinh tế EU28 là 1,2%.
Bên cạnh đó, sản xuất công nghiệp ở cả 2 khu vực Eurozone và EU28 đều giảm trong mấy tháng gần đây. Cụ thể, so với tháng trước đó, sản xuất công nghiệp tháng 6/2014 của khu vực Eurozone giảm 0,3%, của khu vực EU28 giảm 0,1% sau khi đã giảm 1,1% trong tháng 5/2014 với cả 2 khu vực. So với cùng kỳ năm trước, sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp giữ nguyên không đổi đối với khu vực Eurozone và tăng 0,7% đối với khu vực EU 28. Ngoài ra, tỷ lệ thất nghiệp của khu vực Eurozone trong tháng 6/2014 là 11,5%, giảm nhẹ từ mức 11,6% của tháng 5/2014; của khu vực EU 28 là 10,2% trong tháng 6/2014, cũng giảm nhẹ từ mức 10,3% trong tháng 5/2014. Lạm phát hàng năm của khu vực liên tục giảm trong 7/2014 là 0,4%, giảm tiếp tục so với mức 0,5% của tháng 6/2014; của khu vực EU 28 là 0,6% cũng giảm từ mức 0,7% của tháng 6/2014.
Tình hình kinh tế Nhật Bản cho thấy một số dấu hiệu tiêu cực. Thông tin từ Cơ quan thống kê Nhật Bản cho biết, tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản trong quý II/2014 giảm xuống 6,8% so với cùng kỳ năm ngoái và là mức thấp nhất kể từ thảm hoạ kép năm 2011. So với quý I/2014, tốc độ tăng trưởng GDP quý II giảm 1,7%, sau khi tăng 1,5% trong quý I/2014. Tiêu dùng cá nhân (chiếm tới 60% hoạt động kinh tế của Nhật Bản) thống kê được trong quý II/2014 đã giảm 5% so với quý I/2014. Doanh số bán lẻ và sản lượng nhà máy đều bị ảnh hưởng kể từ khi thuế tiêu dùng tăng vào tháng 4/2014. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ trước đó và tuyên bố tác động của việc tăng thuế tiêu thụ sẽ dần dần dịu bớt. Theo khảo sát của Bloomberg với các chuyên gia kinh tế, kinh tế Nhật Bản sẽ tăng 2,9% trong quý III/2014.
Tại Trung Quốc, Tổng cục thống kê quốc gia Trung Quốc cho biết chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 7/2014 tăng 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái và ngang với mức tăng của 6/2014. Giá lương thực tháng 7/2014 tăng 3,6% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng thấp hơn mức tăng 3,7% của tháng 6/2014 . Chỉ số giá sản xuất tháng 7/2014 của Trung Quốc giảm 0,9% so với cùng kỳ năm 2013. Cũng trong tháng 7/2014, tổng vốn FDI vào Trung Quốc giảm xuống mức 7,81 tỷ USD sau khi tăng 0,2% trong tháng trước đó. Bảy tháng đầu năm 2014, lượng vốn FDI vào Trung Quốc, không tính vốn đầu tư vào lĩnh vực tài chính, đạt 71,14 tỷ USD, giảm 0,35% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu của Trung Quốc tháng 7/2014 bất ngờ tăng trưởng mạnh trong khi nhập khẩu giảm, đẩy thặng dư thương mại tăng lên mức kỷ lục. Cục Hải quan Trung Quốc cho biết, tháng 7/2014, xuất khẩu tăng 14,5% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn nhiều so với mức tăng dự báo 7% của các chuyên gia. Trong khi đó, nhập khẩu giảm 1,6%. Như vậy, thặng dư thương mại tháng 7/2014 của Trung Quốc tăng lên 47,3 tỷ USD so với 31,6 tỷ USD của tháng trước đó. PMI trong lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc tháng 7/2014 đạt mức 52 điểm, cao hơn so với mức dự báo 51,7 điểm của các chuyên gia và 50,7 điểm của tháng 6/2014.
Chỉ số HSBC Emerging Markets Index (EMI) của thị trường mới nổi toàn cầu trong tháng 7/2014 giảm xuống còn 51,7 điểm từ mức 52,3 điểm trong tháng 6/2014, cho thấy tăng trưởng sản lượng chậm lại trên thị trường mới nổi toàn cầu. tăng trưởng chậm lại trong tháng 7/2014 là do các hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ đều giảm sút trong khi tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất tăng trưởng khả quan. Lĩnh vực sản xuất có tốc độ tăng trưởng cao tại các quốc gia: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Đài Loan, Nga và Cộng hòa Séc. Trong khi giảm mạnh tại Braxin, Thổ Nhĩ Kỳ và Hàn Quốc. Tại Malaysia, tăng trưởng GDP đạt tốc độ nhanh nhất trong 6 quý gần đây nhờ xuất khẩu và nhu cầu nội địa tăng vọt. GDP quý II/2014 của nước này tăng trưởng ở mức 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái sau khi tăng trưởng 6,2% trong quý I/2014. Tại Thái Lan, tốc độ tăng trưởng GDP quý II/2014 đạt mức 0,9% so với quý I/2014, và tăng 0,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tại Xingapo, theo Bộ Thương mại Xingapo, GDP quý II tăng trưởng ở mức 0,1% so với 3 tháng đầu năm, trái ngược với dự báo giảm 0,8% của các chuyên gia. Tại Hàn Quốc, Chính phủ Hàn Quốc vừa tung gói kích thích trị giá 40 tỷ USD nhằm vực dậy nền kinh tế trong bối cảnh tiêu dùng trong nước suy yếu và đà phục hồi kinh tế toàn cầu chậm lại.
Đối với lĩnh vực thương mại, tăng trưởng sản lượng toàn cầu trong tháng 7/2014 tăng lên mức cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh được củng cố bởi sự gia tăng của các đơn đặt hàng mới, khuyến khích cả nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ tạo thêm nhiều việc làm việc làm. Cụ thể là chỉ số PMI tổng hợp toàn cầu trong tháng 7/2014 đạt mức 55,5 điểm, tăng từ mức 55,4 trong tháng 6/2014. Lĩnh vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, và trong lĩnh vực sản xuất, tốc độ tăng trưởng tuy tăng chậm nhưng khá vững chắc. Xu hướng tăng được dẫn dắt bởi kinh tế Mỹ và Anh. Tại khu vực châu Âu, Đức và Tây Ban Nha tiếp tục có tốc độ tăng trưởng trong sản xuất và dịch vụ, trong khi Pháp lại giảm. Đối với khu vực châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ có tốc độ tăng trưởng ấn tượng trong lĩnh vực sản xuất bù đắp lại cho lĩnh vực dịch vụ.
Giá cả hàng hóa thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, căng thẳng địa chính trị leo thang tại một số khu vực trên thế giới đã kéo giảm nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của Mỹ. Đồng thời, bế tắc tại Ukraine gia tăng càng khiến phương Tây đẩy mạnh trừng phạt kinh tế Nga, gây ảnh hưởng lớn tới các nền kinh tế châu Âu và hoạt động tiêu thụ hàng hóa tại các thị trường này. Chỉ số giá lương thực giảm trong tháng 7/2014 xuống còn 203,9 điểm – đây là mức thấp nhất từ tháng 2/2014. Đối với thị trường xăng dầu thế giới, dầu WTI dao động trong khi Brent bình ổn trước thông tin tồn kho dầu thô Mỹ giảm. Giá dầu Brent tháng 10/2014 tại sàn ICE Futures Europe exchange ở London giảm 2 cents còn 101.54 USD/thùng. Chênh lệch giá dầu thô chuẩn Châu Âu và dầu WTI tháng 10 đạt mức 8.62 USD. Trong ngày hôm qua, giá chênh lệch đã mở rộng ra mức 8.7 USD, mức chênh lệch cao nhất kể từ ngày 19/6. Tại thị trường châu Á giá dầu không đồng nhất. Dầu thô chuẩn Mỹ WTI giao kỳ hạn tháng 09 tăng 34 cents lên 94,82 USD vào cuối ngày giao dịch. Trong khi tại New York hôm thứ Ba giá hợp đồng này giảm 1,93 USD do các nhà đầu cơ bán hạ giá trước ngày hết hạn. Dầu Brent giao tháng 10 giảm 3 cents còn 101,53 USD.
2. Tác động đến Việt Nam
Những tác động rõ ràng đối với sự phục hồi kinh tế Nhật Bản, Kế hoạch tăng trưởng kinh tế của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe (Abenomics) còn tạo được những ảnh hưởng tích cực đến quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Về thương mại, Nhật Bản vẫn luôn là thị trường thương mại quan trọng của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 10% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 2013, tổng kim ngạch hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản đứng thứ 4 trong tất cả các thị trường mà Việt Nam xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, trong đó, xếp thứ 2 về xuất khẩu và xếp thứ 3 về nhập khẩu. Hiện nay, cán cân thương mại Việt - Nhật tương đối cân bằng. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật chủ yếu gồm dầu thô, dệt may, linh kiện điện tử và phụ tùng. Việc giảm giá đồng yên sẽ ảnh hưởng chủ yếu đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may, trong khi mặt hàng dầu thô và linh kiện điện tử, phụ tùng sẽ không ảnh hưởng nhiều. Việt Nam nhập khẩu từ thị trường này các mặt hàng phục vụ sản xuất, kinh doanh như máy móc, thiết bị, sản phẩm điện tử, sản phẩm từ chất dẻo, vải. Như vậy có thể thấy, các mặt hàng của hai quốc gia có tính bổ sung cho nhau nên sẽ ít có cạnh tranh, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật sẽ phụ thuộc vào chất lượng hàng hóa nhiều hơn là giá cả.
Bên cạnh đó, tăng trưởng sản xuất thế
giới tăng trưởng trở lại sẽ tạo tiền đề thúc đẩy sản xuất của Việt Nam
và thúc đẩy thương mại. Tuy nhiên, Tốc độ tăng trưởng chưa bền vững từ
các nền kinh tế chủ chốt trên thế giới như Mỹ, châu Âu và sự sụt giảm
tăng trưởng tại các nền kinh tế mới nổi sẽ tiếp tục thu hẹp nhu cầu từ
nước ngoài đối với hàng hóa của Việt Nam. Do vậy, xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường này có thể gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
1. http://www.bea.gov/newsreleases/national/gdp/gdpnewsrelease.htm/
2. Bộ lao động Mỹ http://www.dol.gov/.
3. markiteconomics.com
4. http://gafin.vn/
5. Tổng cục thống kê quốc gia Trung Quốc, Cục Hải quan Trung Quốc…
6. Markit economic
Nguồn: http://www.ncseif.gov.vn/sites/vie/Pages/tinhhinhkinhtethegioi-nd-16814.html
