Chính sách phát triển nông nghiệp ở Nhật Bản
Phát triển khoa học - kỹ thuật nông nghiệp
Sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản bị
tàn phá nặng nề, không chỉ sản xuất công nghiệp mà nông nghiệp cũng đạt ở
mức rất thấp, nguyên liệu và lương thực trong nước thiếu thốn trầm
trọng. Do vậy trong điều kiện đất chật người đông, để phát triển nông
nghiệp, Nhật Bản coi phát triển khoa học kỹ thuật nông nghiệp là biện
pháp hàng đầu. Nhật Bản tập trung vào các công nghệ tiết kiệm đất như:
tăng cường sử dụng phân hoá học; hoàn thiện công tác quản lý và kỹ thuật
tưới tiêu nước cho ruộng lúa; lai tạo và đưa vào sử dụng đại trà những
giống kháng bệnh, sâu rầy và chịu rét; nhanh chóng đưa sản xuất nông
nghiệp sang kỹ thuật thâm canh, tăng năng suất... Đây là một thành công
quan trọng về định hướng đầu tư khiến cho sản xuất nông nghiệp vào năm
1950 đã được phục hồi xấp xỉ mức trước chiến tranh. Sản xuất tiếp tục
phát triển và tới 1953 đã vượt mức trước chiến tranh 30%. Sản xuất nâng
cao là điều kiện thuận lợi để Nhật Bản thực hiện Chương trình hiện đại
hoá sản xuất nông nghiệp.
Để phát triển khoa học - kỹ thuật nông
nghiệp, Nhật Bản chủ yếu dựa vào các viện nghiên cứu nông nghiệp của
Nhà nước và của chính quyền các địa phương. Thời gian này, những viện
nghiên cứu vùng được nhà nước thành lập, trong đó Viện quốc gia về khoa
học nông nghiệp được thành lập ở cấp Nhà nước là cơ quan có trách nhiệm
tổng hợp gắn kết toàn bộ các viện nghiên cứu cấp ngành thành một khối.
Việc nghiên cứu nông nghiệp do Viện nghiên cứu quốc gia và các viện
nghiên cứu nông nghiệp chuyên ngành cùng đảm nhiệm. Bên cạnh đó, các
viện nghiên cứu nông nghiệp cũng tăng cường liên kết nghiên cứu với các
trường đại học, các xí nghiệp tư nhân và các hội khuyến nông. Nhờ vậy,
việc phát triển và mở rộng việc áp dụng các nghiên cứu khoa học kỹ thuật
nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường hiệu quả sản
xuất nông nghiệp song song với những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực
phát triển cơ giới hoá, đầu tư và hoàn thiện những cơ sở hạ tầng.
Cải cách ruộng đất
Sau thế chiến thứ II, Nhật Bản thực
hiện cải cách ruộng đất triệt để. Mọi nông dân đều được chia ruộng đất,
nhưng đa phần họ sở hữu ít ruộng, thửa nhỏ. Hoạt động sản xuất khá manh
mún, dựa vào sức lao động là chính, khó áp dụng máy móc, khoa học kỹ
thuật.
Vì thế, Chính phủ Nhật Bản tạo điều
kiện để nông dân sản xuất giỏi có thể tích luỹ ruộng đất, phát triển quy
mô sản xuất, trở thành nông dân chuyên nghiệp sản xuất hàng hoá lớn.
Thông qua tổ chức hợp tác, trang bị cho họ kỹ năng sản xuất, quản lý
nông hộ, năng lực tiếp thu khoa học - công nghệ và nắm bắt các yêu cầu
của thị trường.
Phát triển sản xuất có chọn lọc, nâng cao chất lượng nông sản
Kể từ sau năm 1951, việc áp dụng tiến
bộ kỹ thuật – công nghệ làm cho sản xuất nông nghiệp thừa dẫn đến giá cả
nông sản liên tục giảm và thu nhập nông dân bị giảm sút. Năm 1956, thu
nhập của mỗi nông hộ kém 10% và của mỗi nhân khẩu chỉ bằng 2/3 so với
nhân khẩu công nhân thành phố. Tình hình này khiến cho nông dân lo lắng
về tương lai của họ trong khi sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng.
Thời kỳ này, ngành nông nghiệp Nhật Bản gặp phải nhiều khó khăn, nhiều
vấn đề nông nghiệp đòi hỏi phải được giải quyết thông qua những chính
sách mới về nông nghiệp như: các hộ nông dân thu nhập thấp; cạnh tranh
kém trên thị trường quốc tế; số nông dân lao động phi nông nghiệp ngày
một tăng; hệ thống cơ cấu công việc đồng áng bị tổn hại...
Để giải quyết những khó khăn trên và
cải thiện điều kiện kinh tế của hộ nông dân, chính sách nông nghiệp của
Nhật Bản đã nhấn mạnh tới việc chuyển từ chỗ tăng sản lượng lương thực
một cách đơn thuần sang phát triển nông nghiệp trên cơ sở tăng hiệu quả
kinh tế. Bước ngoặt của chính sách nông nghiệp thực sự bắt đầu khi Luật
Nông nghiệp cơ bản được ban hành vào năm 1961, với hai phương hướng
chính sách chủ yếu: Phát triển sản xuất có chọn lọc, cụ thể là đẩy mạnh
sản xuất những sản phẩm có nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng và giảm sản
xuất những nông phẩm có sức tiêu thụ kém. Hoàn thiện cơ cấu nông nghiệp,
kể cả việc phát triển những nông hộ và hợp tác xã có năng lực về quản
lý kinh doanh và canh tác. Chính sách giá cả được xem là quan trọng
nhưng Nhật Bản còn ngần ngại khi thực hiện nâng giá, lý do đơn giản là
sợ làm tăng nhanh nguồn thu nhập của nông dân.
Trong những năm 1960 và 1970, sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế Nhật đã đẩy thu nhập của nhân dân tăng
đáng kể, nhu cầu tiêu dùng đạm động vật, mỡ, dầu thực vật, và hoa quả
tăng nhanh, trong khi đó nhu cầu về gạo giảm xuống. Do có sự thay đổi
khẩu phần ăn như vậy, nên chính sách và biện pháp sản xuất có chọn lọc
được áp dụng chủ yếu cho chăn nuôi và cây ăn quả. Kết quả là từ 1960 đến
1970, sản phẩm chăn nuôi tăng 4 lần và sản lượng hoa quả tăng 2 lần;
nhu cầu lương thực, thực phẩm ở trong nước phần lớn đã được giải quyết.
Cũng trong thời gian này, lao động trong nông nghiệp giảm xuống khoảng
50%, song năng suất lao động lại tăng bình quân hàng năm 5-8% nhờ tăng
cường cơ giới hoá và cải tiến quy trình kỹ thuật. Đây là tỷ lệ tăng bình
quân cao nhất ở những nước phát triển.
Khẩu phần ăn của người Nhật đã thay
đổi, nên ngành thực phẩm chế biến ngày càng chiếm vị trí quan trọng. Các
chính sách về mua bán và chế biến nông phẩm như: hoàn thiện và củng cố
mạng lưới bán buôn từ cấp trung ương tới địa phương; tổ chức hệ thống
tín dụng cho những người tham gia dịch vụ mua bán; hướng dẫn kỹ thuật và
quản lý cho những người quản lý các xí nghiệp nhỏ; bảo hộ cho người
tiêu dùng... cũng được thực hiện.
Phát triển các HTX và các tổ chức kinh tế HTX dịch vụ
Tầng lớp nông dân nhỏ ở Nhật Bản cạnh
tranh thành công trên thị trường là nhờ kinh tế hợp tác rất phát triển.
Hiện các hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản có vai trò lớn, thu hút và hỗ
trợ hiệu quả hơn 3 triệu hộ nông dân. Gần như 100% nông dân ở Nhật Bản
là hội viên nông hội và xã viên hợp tác xã. Hệ thống hợp tác xã và nông
hội được tổ chức theo nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng và dân
chủ ra quyết định. Hội đồng quản trị từ cơ sở đến trung ương đều do xã
viên bầu, giám đốc điều hành do hội đồng tuyển và hợp đồng. Các cấp quản
lý có trách nhiệm thực hiện đúng nhiệm vụ được nông dân uỷ thác, bảo vệ
và phản ánh quyền lợi của nhân dân.
Hợp tác xã là người cung cấp chính các
dịch vụ thiết yếu cho nông dân như: tín dụng, bảo hiểm rủi ro, khuyến
nông, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, sử dụng tập thể các máy
móc thiết bị. Đến nay, hợp tác xã đã mở rộng ra các lĩnh vực phúc lợi xã
hội như điều trị y tế, giáo dục, văn hoá, cải thiện điều kiện sống, du
lịch và đặc biệt là thương mại. Các tổ tư vấn nông nghiệp trong mỗi hợp
tác xã làm cầu nối với các cơ quan nông nghiệp, các trạm nghiên cứu, cán
bộ thú y và các nhóm nghiên cứu khoa học khác. Năm 1997, Nhật Bản có
khoảng 16.869 tổ tư vấn nông nghiệp trong các hợp tác xã. Đây cũng là
thị trường lớn thu hút cán bộ kỹ thuật, kỹ sư về công tác ở nông thôn.
Chính sách hỗ trợ nông nghiệp
Về chính sách giá cả, đặc biệt chính
sách trợ giá cho lúa gạo khá lớn, đã kích thích sản xuất và dẫn đến sản
xuất thừa gạo. Các sản phẩm nông nghiệp khác như lúa mì và hoa màu đều
giảm. Từ năm 1970, Nhật Bản bắt đầu hạn chế mức sản xuất gạo, do vậy
Nhật Bản chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu lương thực trong nước so với 79%
của năm 1960. Theo quan điểm an ninh lương thực là mục tiêu số một nên
ngành nông nghiệp được bảo hộ rất cao. Nhật Bản luôn khuyến khích sản
xuất nông nghiệp theo kiểu tự cung tự cấp thông qua việc hạn chế nhập
khẩu một cách tối đa. Điều này dẫn tới mức giá nông phẩm cao và khuyến
khích sản xuất trong nước. Nhà nước có sự can dự rất sâu trong kiểm soát
việc cung cấp và ấn định các mức giá cho một số loại hàng hoá nông phẩm
ở thị trường nội địa. Chỉ riêng việc duy trì giá gạo cao, trong vòng
hơn 30 năm qua Nhật Bản đã phải chi một khoản trợ cấp rất lớn 6 tỷ yên
cho chính sách này và sau đó lại cần đến 5 tỷ yên để bán hết số gạo dư
thừa đó .
Trong khi đó các đối tác thương mại
chủ yếu của Nhật Bản đã triển khai một cách khó khăn những cuộc cải cách
nông nghiệp theo khuynh hướng chung về tự do hoá thương mại của vòng
đàm phán Urugoay và WTO thì sự ủng hộ của người Nhật cho những thay đổi
đó vẫn còn rất yếu. Nền kinh tế Nhật Bản sau hơn một thập kỷ suy thoái
đang tiếp tục cần phải có những sự điều chỉnh cơ cấu một cách mạnh mẽ
hơn. Thất nghiệp ở mức cao và thu nhập thực tế giảm sút khiến cho người
tiêu dùng đã có những phản ứng khi họ phải trả mức giá cao khi mua nông
sản được sản xuất ở trong nước khi so sánh với mức giá trên thị trường
thế giới. Trong khi đó việc nới lỏng tự do hoá nhập khẩu khiến cho giá
một số hàng nông phẩm thấp đi.
Rõ ràng chính sách hỗ trợ nông nghiệp
kéo dài của Nhật Bản đang làm tổn thương tới những điều mà nó cố tình
bảo vệ vì lương thực được cho là dồi dào ở Nhật Bản nhưng giá cả lương
thực vẫn khá đắt, đặc biệt đối với những ai có mức thu nhập thấp. Điều
này làm giảm sức mua của người tiêu dùng, do đó làm tổn thương tới các
nhà cung cấp khác trên cơ sở tạo ra các ảnh hưởng kinh tế mang tính dây
chuyền. Việc hỗ trợ thu nhập cho người nông dân thông qua việc duy trì
các mức giá nông sản cao, cũng làm cho tính cạnh tranh của khu vực này
về mặt dài hạn và khả năng đảm bảo an ninh lương thực của Nhật Bản bị
giảm sút.
Như vậy, có thể thấy các chính sách hỗ
trợ trong quá khứ của Nhật dường như sẽ không còn phù hợp nữa và Nhật
Bản đã đưa ra “Luật cơ bản mới về lương thực, nông nghiệp và khu vực
nông thôn” vào cuối năm 1999 với hứa hẹn có những cuộc cải cách mới
trong lĩnh vực nông nghiệp. Song thực tế cải cách nông nghiệp diễn ra
hết sức chậm chạp. Việc này được lý giải bởi các ảnh hưởng chính trị của
những người nông dân và các HTX nông nghiệp vẫn còn rất lớn trong xã
hội Nhật Bản.
Đến nay Nhật Bản vẫn duy trì mức thuế
cao đối với các mặt hàng như gạo, lúa mỳ và các sản phẩm từ sữa. Có thể
thấy rõ điều này thông qua việc “so sánh về chính sách giữa các nước,
khối nước khác nhau”. Ở Mỹ phần gánh nặng mà người tiêu dùng phải chịu
đã giảm từ 46% trong giai đoạn 1986-1988 xuống còn 35% trong năm 2004; ở
EU cũng giảm từ 85% xuống còn 54%, ngược lại ở Nhật Bản lại tăng từ 90%
lên 91%. Với việc duy trì mức thuế cao, Nhật Bản đang phải đối mặt với
những phản ứng của các đối tác thương mại trên các diễn đàn song phương
và đa phương về sức ỳ quá lớn của Nhật Bản đối với tiến trình tự do hoá
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chính sách với vấn đề phát triển nông thôn ở Nhật Bản
Chính sách “ly nông bất ly hương”: Hai
nhóm chính sách chính là: phát triển doanh nghiệp nông thôn và đưa công
nghiệp lớn về nông thôn để tạo sự gắn bó hài hoà phát triển nông thôn
với phát triển công nghiệp, xoá bỏ khoảng cách về mức sống giữa đô thị
và nông thôn. Ở Nhật Bản, năm 1950 thu nhập phi nông nghiệp đóng góp gần
30% tổng thu nhập của cư dân nông thôn, năm 1990 tăng lên tới 85%.
Ở Nhật Bản, không chỉ các ngành công
nghiệp chế biến nông sản mà cả các ngành cơ khí, hoá chất đều được phân
bố trên toàn quốc. Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá (năm 1883), 80% nhà
máy lớn ở Nhật đã được xây dựng ở nông thôn; 30% lao động nông nghiệp
tham gia hoạt động phi nông nghiệp; năm 1960 tỷ lệ này tăng lên 66%. Nhờ
chủ trương này mà công nghiệp sử dụng được một nguồn lao động rẻ, dân
cư nông thôn có điều kiện cải thiện thu nhập.
Phát triển cộng đồng nông thôn qua các
tổ chức hợp tác xã: các hợp tác xã và tổ chức kinh tế hợp tác dịch vụ
nông nghiệp đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đưa công
nghiệp về nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, cung ứng vật tư
và tiêu thụ nông sản. Nhờ chính sách đưa công nghiệp về nông thôn, ngày
nay ở Nhật Bản hầu như không còn vùng nông thôn thuần tuý, kể cả vùng
núi, vùng xa. Ranh giới giữa nông thôn và thành thị thật khó phân biệt
cả về kinh tế, xã hội và đời sống. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn đã cơ bản hoàn thành.
Hợp tác xã nông nghiệp được xây dựng
trên nền tảng làng xã nông thôn Nhật Bản. Trong mỗi làng xã, những mối
quan hệ nhiều chiều đa dạng đã tồn tại từ rất lâu giữa các gia đình,
giữa những người nông dân. Lợi dụng ưu điểm này, hợp tác xã nông nghiệp
được xây dựng trên cơ sở cộng đồng nông thôn để tạo quan hệ cộng đồng
mới vững chắc được bắt nguồn từ bên trong cộng đồng làng xã. Do vậy, hợp
tác xã cũng rất chú trọng đến các hoạt động mang tính cộng đồng để làm
cho cuộc sống ở nông thôn tốt đẹp hơn.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Một là, tăng cường đầu tư và tích cực
chuyển giao công nghệ, đào tạo và dạy nghề cho nông dân nhằm phát huy
tài nguyên con người và áp dụng khoa học - công nghệ có hiệu quả. Đây là
động lực chính cho tăng trưởng nông nghiệp tương lai, tạo ra bước đột
phá về năng suất, chất lượng của nông sản; tăng khả năng cạnh tranh ở
trong và ngoài nước.
Hai là, chính sách hỗ trợ trong nông
nghiệp gồm 2 loại: hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Nhà nước cần
hỗ trợ mạnh cho các hợp tác xã, hội nông dân để giúp các tổ chức này
hoạt động tốt trong vai trò cung ứng vật tư nông nghiệp thiết yếu, đào
tạo, dạy nghề, cung cấp thông tin, hỗ trợ kinh phí, điều kiện sinh hoạt,
buôn bán xuất khẩu nông sản, bảo vệ lợi ích của người nông dân. Sự phát
triển của các tổ chức hợp tác xã và hội nông dân giúp cho cộng đồng xã
hội nông thôn phát triển hài hoà cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi
trường với điều kiện hợp tác xã thực sự hoạt động theo nguyên tắc tự
lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ, hiệu quả hoạt động cao, có sự
tương trợ lẫn nhau.
Ba là, hiện tích tụ ruộng đất bình
quân ở Việt Nam chỉ có 0,6 ha/hộ; vào loại thấp nhất thế giới. Hiện nay,
chính sách dồn điền, đổi thửa cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún.
Nhưng cần thực hiện chính sách này từng bước một cách thận trọng và gắn
với phân công lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở phát
triển kinh tế hộ gia đình.
Bốn là, thực hiện liên kết nông
nghiệp, nông thôn với công nghiệp và đô thị nhằm thu hẹp khoảng cách
giữa đô thị và nông thôn theo hướng đưa công nghiệp, kể cả công nghiệp
nặng về phân tán ở nông thôn; điều chỉnh kế hoạch mở rộng các đô thị lớn
thành xây dựng nhiều thành phố vệ tinh nhỏ nằm ở nông thôn; đồng thời,
cải thiện hệ thống giao thông để cư dân nông thôn và đô thị có thể di
chuyển thuận lợi. Điều này vừa giúp tăng thu nhập cho cư dân nông thôn
vừa giúp giảm áp lực người dân nông thôn đổ dồn vào thành thị./.
-----------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chính
sách tam nông của Nhật Bản – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nguyễn
Hồng Thu, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (Bài đăng trên website:
http://www.inas.gov.vn/);
- Đặng
Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân
trong quá trình công nghiệp hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Phùng
Quốc Chí (2007), Phát triển hợp tác xã nông nghiệp: Kinh nghiệm Nhật
Bản và bài học chính sách cho Việt Nam, Tạp Chí Quản lý kinh tế, số 17,
tháng 11+12;
- www.tapchicongsan.org.vn
Nguồn: Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia