Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin nổi bật

Tăng sức cạnh tranh của nền công nghiệp

06/08/2010 - 538 Lượt xem

Hạn chế về vốn, công nghệ và trình độ quản lý cũng là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh của ngành công nghiệp Việt Nam và khả năng nắm bắt các cơ hội thị trường của các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp nước ngoài thường trường vốn hoặc có thể dựa vào sự hậu thuẫn của các thể chế tài chính trong nước như ngân hàng, quỹ tín dụng...

Trong khi đó, do hệ thống tài chính của Việt Nam chưa phát triển đồng bộ và còn nhiều yếu kém, cùng với khung khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh chưa hoàn thiện nên các doanh nghiệp của ta hầu như dựa vào vốn tự huy động là chính...

Vì vậy, cần thiết phải có những giải pháp quyết liệt nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp khi thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng tôi xin chuyển đến quý độc giả những ý kiến xung quanh vấn đề này.

Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới
Ông Nguyễn Xuân Thuý, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp

Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu. Nền kinh tế Việt Nam cũng đã và đang từng bước hội nhập một cách đầy đủ. Có thể nói rằng, cơ hội lớn nhất mà ngành công nghiệp Việt Nam có được là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra các thị trường mới.

Thông qua chương trình AICO, các doanh nghiệp Việt Nam có thể được hưởng các ưu đãi về: hưởng mức thuế quan ưu đãi từ 0 - 5% trong việc buôn bán các sản phẩm AICO giữa các doanh nghiệp tham gia; được công nhận hàm lượng nội địa và được hưởng các ưu đãi phi thuế quan khác do các nước ASEAN quy định. Đặc biệt, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng đã góp phần không nhỏ vào việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam.

Việc hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp Việt Nam làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao, đặc biệt là của các nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản. Nhờ tiếp cận những công nghệ tiên tiến này, các doanh nghiệp của ta có thể nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí về nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, tạo ra được những sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng, mẫu mã của nước nhập khẩu. Việc chuyển giao kỹ thuật và công nghệ đã góp phần nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam. Đối với những người giữ vai trò điều hành quản lý trong ngành công nghiệp, quá trình hội nhập quốc tế còn mở ra cơ hội để trau dồi và nâng cao kinh nghiệm quản lý. Hơn nữa, nhờ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngành công nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn mới.

Các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển công nghiệp Việt Nam trong khoảng gần 10 năm qua.
Công nghiệp Việt Nam sẽ phát triển theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững...

Tất cả đều nhằm tới đích cuối cùng là thoả mãn ở mức cao nhất những nhu cầu cơ bản của nền kinh tế đưa ngành công nghiệp Việt Nam trở thành ngành có sức cạnh tranh, là động lực cho phát triển kinh tế, góp phần đưa Việt Nam sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 công nghiệp Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của hệ thống công nghiệp khu vực và thế giới.

Để hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, công nghiệp Việt Nam phải đẩy mạnh việc xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp theo hướng đảm bảo tính ổn định, tính minh bạch, tính có thể tiên liệu được và phù hợp với các yêu cầu của WTO cũng như thông lệ quốc tế.

Hiện đại hoá kiểu “đi tắt đón đầu”
GS. Akira Suehiro, Viện nghiên cứu Khoa học Xã hội, Đại học Tokyo

Tôi nghĩ, công nghiệp hoá kiểu “đi tắt đón đầu” là một trong những luận điểm không thể bỏ qua khi ta bàn về Chiến lược phát triển công nghiệp. Trọng tâm của chính sách thực chất nó là cái gì? Tôi nghĩ, đó là việc áp dụng và làm quen với công nghệ của nước ngoài, đồng thời đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, rút ngắn dần khoảng cách với các nước phát triển về GDP/đầu người.

Đặc trưng của chính sách phải chăng là sự ưu tiên phát triển kinh tế hơn là phát triển xã hội và các chính sách phúc lợi, coi phát triển công nghiệp và thúc đẩy hoạt động ngoại thương là một.

Để tiến hành công nghiệp hoá, theo tôi việc “đi tắt đón đầu” phải bắt đầu bằng các công nghệ nhập khẩu và nâng cao năng lực của toàn xã hội. Xúc tiến công nghiệp hoá theo giai đoạn, cụ thể là theo 2 hướng: hướng thay thế nhập khẩu giai đoạn 2 và hướng thay thế xuất khẩu. Hướng thứ nhất chính là xuất khẩu hàng nông sản, sản phẩm sơ chế, thay thế nhập khẩu hàng công nghiệp nhẹ, phát triển ngành cơ khí máy móc, xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và thay thế nhập khẩu giai đoạn 2 hàng công nghiệp nặng.

Hướng thứ hai: xuất khẩu hàng nông sản, sản phẩm sơ chế thay thế nhập khẩu hàng công nghiệp nhẹ và thay thế xuất khẩu hàng nông sản, sản phẩm sơ chế (nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm).

Tôi hiểu rằng luận điểm công nghiệp hoá kiểu “đi tắt đón đầu” tuân theo chu trình phát triển của nó. Đó là chu trình từ sản xuất rồi đến xuất khẩu. Chẳng hạn, nước A sản xuất sản phẩm X, nước B sản xuất sản phẩm X. Nước A chuyển sang sản xuất sản phẩm Y có giá trị gia tăng cao hơn, kéo theo nước C tham gia vào sản xuất sản phẩm X. Nước B chuyển sang sản phẩm Y, nước A chuyển sang sản phẩm Z.

Nó cũng tuân theo chu trình sản phẩm trong cùng một ngành công nghiệp, nâng cao tốc độ xây dựng phát triển công nghiệp. Và cũng không nằm ngoài chu trình phát triển của các nước trên thị trường thế giới, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm và phát triển cơ cấu công nghiệp.

Hỗ trợ phát triển cụm công nghiệp tập trung
Ông Kazamasa Ilzuka, Chuyên viên Cục Kinh tế và Chính sách Công nghiệp Nhật Bản

Để vượt qua được “10 năm thất bát”, giúp nền công nghiệp Nhật Bản tồn tại được trong bối cảnh cạnh tranh trên thế giới diễn ra mạnh mẽ, đồng thời giúp nền kinh tế của các địa phương phát triển một cách tự lập tự cường thì các doanh nghiệp, các trường đại học, các cơ quan hành chính... hiện đang phân bố theo chiều dọc, cần bắt tay nhau xây dựng một mạng lưới đồng đều, thúc đẩy quá trình cải tiến sáng tạo, trong đó tổng hợp các nguồn tài nguyên kinh doanh bên ngoài.

Khi đó sẽ tạo nên những doanh nghiệp mới, những ngành nghề mới, từ đó hình thành các cụm công nghiệp tập trung mới với hạt nhân là những ngành nghề có sức cạnh tranh quốc tế cao, các cụm công nghiệp này sẽ thu hút thêm nhân lực và doanh nghiệp, là động lực thúc đẩy đoàn tàu công nghiệp tiến lên bằng hai bánh xe: sức bật nội tại và thu hút tài nguyên bên ngoài.

Với Việt Nam, khi tham gia vào WTO mà không có một kế hoạch cụ thể, rõ ràng cho phát triển cụm công nghiệp tập trung thì Chính sách công nghiệp sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Tôi nghĩ rằng các bạn cũng cần có các mức mục tiêu rõ ràng trong chính sách cụm công nghiệp tập trung.

Chẳng hạn như: căn cứ vào tình hình của các cụm công nghiệp tập trung và yêu cầu về mặt chính sách, thành lập các dự án nằm trong khuôn khổ kế hoạch cụm công nghiệp tập trung do Nhà nước chủ trì thực hiện, trong đó sẽ liên kết với các chương trình xây dựng cụm công nghiệp tập trung do chính quyền các địa phương tự thực hiện, từ đó gây dựng và hình thành nên một mạng lưới chắc chắn làm nền tảng phát triển cho các cụm công nghiệp tập trung.

Tiếp tục xây dựng mạng lưới hợp tác, song song triển khai các hoạt động dự án cụ thể. Đồng thời tiến hành cải tổ kinh doanh của doanh nghiệp và xây dựng thêm các dự án kinh doanh nhỏ. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng mạng lưới hợp tác và tiến hành các hoạt động dự án cụ thể, đồng thời tạo khả năng độc lập về mặt tài chính trong hoạt động của các cụm công nghiệp tập trung để phát triển bằng sức bật nội tại.

Kế hoạch 2006 - 2010 sẽ tạo đà phát triển
Ông Lê Văn Được, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Bộ Công nghiệp

Trước hết phải nói đến quan điểm phát triển công nghiệp của ta là trên cơ sở phát huy tổng hợp nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, trong đó khu vực công nghiệp Nhà nước giữ vai trò định hướng; đảm bảo tham gia một cách chủ động và hiệu quả và liên kết công nghiệp và hiệp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành và với các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới; gắn chặt với phát triển dịch vụ; phát triển công nghiệp nông thôn, tạo động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá.

Gắn kết các yêu cầu của phát triển bền vững, tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; kết hợp với yêu cầu củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia. Nhà nước đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, thông tin liên lạc và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống thị trường tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển và hội nhập. Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp, hỗ trợ phát triển công nghiệp nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; hỗ trợ phát triển năng lực thiết kế chế tạo và chuyển giao công nghệ trong ngành công nghiệp.

Giai đoạn 2006 - 2010 là giai đoạn tập trung đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo đà cho công nghiệp phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tiếp theo.

Tuy phía trước còn nhiều khó khăn, thách thức, chúng tôi vẫn tin tưởng rằng với đường lối đổi mới của Đảng, sự chỉ đạo điều hành có hiệu quả của Chính phủ, sự năng động tích cực của đội ngũ doanh nhân Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp nói riêng, cùng với sự hỗ trợ hợp tác có hiệu quả của các đối tác trên thế giới, công nghiệp Việt Nam sẽ có những bước phát triển rực rỡ trong 15 năm tới, để đến năm 2020, công nghiệp Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít của hệ thống công nghiệp khu vực và thế giới, là một trong 4 nước có nền công nghiệp mạnh trong khu vực ASEAN, một số sản phẩm công nghiệp Việt Nam sẽ chiếm lĩnh được thị trường thế giới với những thương hiệu không thể quên như Casumina, Cadivi, Vinamilk...

Những mục tiêu cơ bản mà kế hoạch 5 năm này đạt được chắc chắn sẽ là đòn bẩy cho công nghiệp Việt Nam phát triển nhanh và bền vững. Bởi vì tất cả những con số cụ thể về tốc độ tăng trưởng sản xuất bình quân toàn ngành; tăng trưởng GDP, (cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp); kim ngạch xuất khẩu... được đặt ra để phấn đấu đều có cơ sở thực hiện khả quan.

Công nghiệp Việt Nam giai đoạn 5 năm này phát triển theo một cơ cấu mới: hình thành một mạng lưới công nghiệp trong cả nước trên cơ sở đa dạng hoá về quy mô và chế độ sở hữu; sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch... chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Phát triển đồng bộ mạng lưới sản xuất công nghiệp và tăng cường năng lực xây dựng trên cơ sở quy hoạch phát triển hợp lý các ngành nghề; nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp – xây dựng. Phát triển công nghiệp – xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường.

Để xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp, cần tập trung vào 3 nhóm ngành. Đó là nhóm ngành công nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh, nhóm ngành sản xuất tư liệu sản xuất và nhóm ngành công nghiệp tiềm năng. Lấy xuất khẩu làm mục tiêu phát triển công nghiệp và là thước đo khả năng chủ động hội nhập, trên cơ sở tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh.

Khi đã có được đà phát triển nhanh và bền vững, công nghiệp Việt Nam càng có điều kiện tận dụng tốt những cơ hội khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và huy động mạnh mẽ những năng lực còn tiềm ẩn trong nước, đẩy mạnh đầu tư và đầu tư có trọng điểm, kết hợp đầu tư mới, đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, áp dụng rộng rãi những phương pháp quản lý tiên tiến, áp dụng mọi biện pháp cần thiết để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm...

Thế mạnh và điểm yếu của công nghiệp Việt Nam
Ông Phan Đăng Tuất, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp

Có thể hình dung định hướng phát triển công nghiệp Việt Nam như sau: Tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh, có thị trường và giải quyết nhiều lao động như chế biến nông - lâm - thuỷ sản, thực phẩm, gia công cơ khí, lắp ráp điện tử, vật liệu xây dựng, kết hợp phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng như năng lượng, hoá chất, luyện kim... để tăng khả năng tự chủ của nền kinh tế; tiếp tục đổi mới, sắp xếp và phát triển doanh nghiệp Nhà nước theo hướng hình thành một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty mạnh, đa sở hữu làm nòng cốt trong một số lĩnh vực công nghiệp then chốt.

Đồng thời, tập trung phát triển năng lực nghiên cứu thiết kế sản phẩm công nghiệp và chuyển dịch mạnh sang các ngành công nghiệp chế tác có tiềm năng, có hàm lượng công nghệ cao để tạo bước nhảy vọt về chất lượng phát triển, nâng cao năng suất lao động. Chuyển dịch và phát triển công nghiệp ở nông thôn, gắn kết phát triển công nghiệp với quá trình đô thị hoá và phát triển bền vững. Tập trung thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia, sẵn sàng tham gia liên kết kinh tế dưới nhiều hình thức để đến năm 2020 công nghiệp Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của hệ thống công nghiệp khu vực và thế giới.

Tôi cho rằng chúng ta phải có những đánh giá tổng quát hết sức khách quan, về cả những điểm mạnh, điểm yếu cũng như nguy cơ và cơ hội của Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam.

Nếu làm một phép so sánh về điểm mạnh, điểm yếu của công nghiệp Việt Nam chúng ta dễ dàng thấy rằng số điểm yếu nhiều hơn gần gấp đôi điểm mạnh.

Điểm yếu: sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp yếu; công nghiệp phụ trợ chưa phát triển; cơ cấu công nghiệp chưa hợp lý; hiệu quả đầu tư thấp; công nghệ kỹ thuật lạc hậu; trình độ quản lý doanh nghiệp yếu; thiếu sự phối hợp liên ngành, chính sách thiếu nhất quán; thiết chế kinh tế tập trung cao.

Điểm mạnh: kinh tế tăng trưởng cao, ổn định; ngành công nghiệp nhóm A, B, C đạt thành tựu cao; lao động có kỹ năng, cần cù, chịu khó; phát huy được nguồn lực; đổi mới quản lý Nhà nước.

Tuy nhiên, bù lại, chúng ta phải thừa nhận rằng cơ hội mà công nghiệp nước ta đã, đang và sẽ có thì lại rất là nhiều so với những nguy cơ tiềm ẩn.

Cơ hội: chuyển giao khách quan; phân công và phát huy lợi thế so sánh; thị trường mở rộng; vị thế trong thu hút FDI; phát triển các ngành công nghiệp mới.

Nguy cơ: nguy cơ hội nhập đối với ngành non trẻ; cạnh tranh ngày càng gay gắt; môi trường quốc tế biến động.

Bài học về chính sách công nghiệp của Nhật Bản
Ông Toshio Imai, Giám đốc Quỹ Nagano Techno

Trong chính sách công nghiệp của Nhật Bản chúng tôi quan tâm vận dụng  phương pháp “Ban thẩm định chính sách công nghiệp” + “đầu tư và cho vay tài chính” = “tín dụng chính sách”, để xem đầu tư có hiệu quả hay không.
Đầu tư và cho vay tài chính là phương thức Chính phủ đứng ra thu hút nguồn vốn trong xã hội, rồi tiến hành quản lý kinh doanh tập trung.

“Ban thẩm định chính sách công nghiệp” được thành lập theo mục đích và lĩnh vực cụ thể, sẽ thẩm định đường lối, phương châm của chính sách; cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư trang thiết bị; phân cấp thẩm quyền giữa các bộ, ngành. Chẳng hạn: Ngân hàng phát triển Nhật Bản thì hướng dẫn về chế độ cho vay và kinh doanh vốn; còn Bộ Công thương (MITI) thì hướng dẫn về mặt kỹ thuật và ra quyết định để sửa đổi cải thiện cơ chế v.v...

Làm chính sách phải trả lời được câu hỏi: làm thế nào để nâng sức cạnh tranh của một doanh nghiệp? Với Nhật Bản, khác với chính sách khuyến khích đầu tư của các nước châu á, không có cơ hội lần hai, thì chúng tôi mỗi năm thẩm định 2 lần. Có thể nộp đơn nhiều lần. Quan trọng là những doanh nghiệp vượt qua được vòng thẩm định của Ngân hàng phát triển Nhật Bản thì sẽ dễ vay vốn của các ngân hàng thương mại. Giúp các ngân hàng thương mại tiết kiệm chi phí thẩm định và theo dõi quản lý vốn. Tóm lại Chính sách công nghiệp của Nhật Bản chúng tôi có vai trò “hoàn thiện nền tảng cơ sở nhằm phát triển thị trường” chứ không hẳn là “can thiệp vào thị trường”.

Chính sách công nghiệp không phải là mãi mãi, mà phải được thực hiện với một mục đích cụ thể và trong một thời hạn nhất định. Sự hợp tác giữa Chính phủ và nhân dân, xây dựng mục tiêu chung và chia sẻ thông tin giữa các tổ chức liên quan và trường đại học có vai trò hết sức quan trọng.

Để “Ban thẩm định chính sách công nghiệp” thực sự phát huy vai trò của mình, cần phải có sự tham gia của các chuyên gia giàu kiến thức về công nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp trong lĩnh vực tương ứng. Tín dụng tài chính không chiếm tỷ trọng lớn. Nó chỉ có ý nghĩa ở chỗ tạo “hiệu quả gọi vốn” từ các ngân hàng thương mại tư nhân. Chính phủ có vai trò hoàn thiện cơ chế và hạ tầng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư và hoạt động.

 

Phong Lan thực hiện

Nguồn: http://www.vneconomy.com.vn, ngày