Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Gia nhập WTO: Đừng cam chịu 12 năm làm nền kinh tế phi thị trường (4/6)

06/08/2010 - 316 Lượt xem

Phía Mỹ đã dựa vào đâu để đưa ra con số trên và liệu Việt Nam có thể nỗ lực để rút ngắn chặng đường? Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Phó giám đốc phụ trách nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright - Tp.HCM, nhận định:

- Để nói con số 12 năm là hợp lý hay bất công là rất khó vì còn phụ thuộc vào thế thương lượng của hai quốc gia. Năm 2001, Trung Quốc đã đành chấp nhận thời hạn 15 năm là nền kinh tế phi thị trường, mặc dù thế mặc cả của Trung Quốc lúc đó có thể nói là mạnh hơn Việt Nam hiện nay rất nhiều. Khi đặt một nền kinh tế lên bàn để soi rọi tính chất phi thị trường của nó, Mỹ sẽ xem xét rất kỹ lưỡng, nhưng tất nhiên là với con mắt thiên lệch, thậm chí tàn nhẫn của kẻ mạnh.

Tuy vậy, chúng ta không thể đem 12 năm của Việt Nam ra so với 15 năm của Trung Quốc vì bản thân thương mại quốc tế của Trung Quốc là một sự đe dọa, trong khi chúng ta đến bàn đàm phán với “vốn liếng” chẳng nhiều nhặn gì. Điều đó cũng làm nên sự khác biệt cơ bản của Trung Quốc với Việt Nam là trong khi Việt Nam thuần túy chịu sự áp đặt của luật chơi thì Trung Quốc là nước có thể thay đổi luật chơi.

Sự chấp nhận thời hạn 15 năm của Trung Quốc chỉ mang tính chất sách lược và nhất định họ sẽ tìm cách giảm bớt. Chẳng hạn, họ sẽ dùng tiếng nói của mình trong WTO để vận động thông qua một chính sách mới, kiểu như một quốc gia nếu được chấp nhận là thành viên WTO thì nghiễm nhiên được xem là nền kinh tế thị trường.

Hay thậm chí Trung Quốc có thể dùng vị thế của mình như một “nhà lãnh đạo mới” của các nước đang phát triển để gây sức ép thay đổi luật chơi. Việt Nam có thể đợi để “ăn theo” như là một vận may từ bên ngoài đem lại.

Nhưng nếu Việt Nam đẩy mạnh tiến trình cải cách nội bộ, giảm sự can thiệp vào nền kinh tế, liệu phía Mỹ có “nghĩ lại” và giai đoạn thử thách này sẽ được rút ngắn hơn?

Hoàn toàn có thể. Nếu muốn, chúng ta có nhiệm vụ phải chứng minh sự thay đổi đó và yêu cầu phía Mỹ xem xét lại quyết định của mình. Điều quan trọng là chúng ta cần “ray rứt” trước sự áp đặt thời hạn này vì để nó kéo dài càng lâu chúng ta càng bị thiệt thòi. Những ngành đang làm ăn tốt của Việt Nam có thể bị Mỹ tùy tiện kiện bán phá giá vào bất cứ lúc nào, điều này có nghĩa chi phí cho các doanh nghiệp càng lớn và cơ hội mở rộng thị trường bị hạn chế hơn rất nhiều.

Như vậy, chúng ta buộc phải xác định ưu tiên trong quá trình cải cách vì không thể cùng một lúc Việt Nam có thể chỉnh sửa tất cả những chính sách trên?

Một quốc gia đương nhiên phải có sự tự tôn đối với chính sách của mình, bởi khi đề ra chính sách đó họ đã hướng đến một mục tiêu dài hạn nhất định. Vì vậy cải cách cần phải theo lộ trình để đảm bảo rằng Việt Nam có sức mạnh nội tại và có khả năng cạnh tranh.

Cũng như Trung Quốc, bên cạnh phải liên tục đối mặt với các vụ kiện bán phá giá họ cũng bị các nước Âu-Mỹ gây sức ép phải nâng giá đồng nhân dân tệ. Nhưng rõ ràng Trung Quốc đã không thực hiện điều này trong một sớm một chiều.

Phía Mỹ cho rằng các khoản đầu tư của Chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước là một kênh bao cấp quan trọng. Việt Nam đã đẩy mạnh quá trình sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua cũng là để xóa dần kênh bao cấp này. Nhưng cùng lúc, Chính phủ lại ra quyết định thành lập các tập đoàn nhà nước “mạnh” như dệt may, than - khoáng sản, bưu chính viễn thông, tài chính - bảo hiểm... Có gì mâu thuẫn ở đây không, thưa ông?

Chúng tôi gọi đó là sự giằng co khi Việt Nam đang ở trong trạng thái giao thời. Sự giằng co giữa một bên là tính cấp bách của việc gia nhập WTO, mở cửa thị trường, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường và một bên là sự níu kéo của lợi ích thâm căn cố đế của một số nhóm. Điều này thể hiện qua việc hình thành các tập đoàn chỉ để giải quyết bài toán trước mắt về sở hữu nhà nước mà không cần tính tới các nhân tố kinh tế.

Kết quả là các tập đoàn không những không thuyết phục về mặt hiệu quả kinh tế, mà sở hữu nhà nước vẫn còn rất mơ hồ. Chẳng hạn với Tập đoàn Than-khoáng sản, tôi không cho rằng nó có tương lai. Hình như chúng ta thành lập chỉ để cho có, không phục vụ mục tiêu phát triển nào có tính chiến lược cả.

Trên thế giới, động cơ hình thành các tập đoàn là nhu cầu phát triển tự nhiên chứ không ai đi gom một mớ về làm thành tập đoàn cả. Cho nên, nếu chúng ta đi ngược lại quá trình vận động phát triển của doanh nghiệp thì có nghĩa chúng ta lại sẽ tốn thời gian để “sửa sai” (như hiện nay, Tp.HCM đang chọn một số tổng công ty và công ty mẹ - con để tiến hành thí điểm cổ phần hóa, ngay sau khi mới vừa thành lập ra chúng).

Có những khoản trợ cấp nào cho nền kinh tế được xem là hợp lệ theo qui định của WTO không, thưa ông?

Nhà nước không nên và sẽ không còn được phép hỗ trợ doanh nghiệp theo kiểu giao cho một gói tiền để anh sử dụng cho mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh. Chúng ta phải thay đổi cách thức hỗ trợ, trong đó hỗ trợ về giáo dục và đào tạo là kế sâu rễ bền gốc nhất. Không có điều khoản nào của WTO ngăn cản một quốc gia được đầu tư vào một nguồn nhân lực chất lượng cao cả. Bên cạnh đó, hỗ trợ về phương diện thông tin cũng hết sức cần thiết.

Ở cấp độ sơ đẳng nhất là công bố cho cộng đồng doanh nghiệp về các hiệp định, hiệp ước mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia khác. Nhưng ở đây không phải công bố tài liệu thô mà phải kèm tư vấn giải thích, kiểu như điều khoản này có ý nghĩa như thế nào, ảnh hưởng ra sao đến ngành nghề của họ. Ngoài ra, thông tin về thị trường nước ngoài và các đối thủ cạnh tranh nước ngoài cũng phải được nâng tầm thông qua việc cải thiện chất lượng các cơ quan xúc tiến thương mại và đội ngũ tham tán thương mại ở các đại sứ quán.

Phải cho các doanh nghiệp biết thông lệ quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh của họ là gì. Khi các doanh nghiệp của chúng ta còn quanh quẩn ở trong vịnh thì chẳng nói làm gì, nhưng một khi đã dong buồm ra biển rồi thì phải nắm rõ luật hàng hải quốc tế chứ. Rõ ràng, đây là khoản đầu tư nhà nước chỉ làm một lần nhưng tất cả các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế đều được hưởng lợi.

Bên cạnh đó, ra biển thì “sóng to, gió lớn”, rủi ro rất nhiều. Nhà nước cũng cần xem xét các biện pháp phòng hộ và bảo hiểm để hỗ trợ cho các doanh nghiệp để khuyến khích tinh thần “ra khơi”, dám chấp nhận rủi ro của họ.

Việc cổ phần hóa các đại ngân hàng quốc doanh như Vietcombank, BIDV... theo ông, có ý nghĩa gì trong thời điểm giao thời này?

Chúng ta đều biết “tam giác quỉ” giữa nhà nước - ngân hàng thương mại quốc doanh - doanh nghiệp nhà nước đang làm méo mó thị trường tài chính Việt Nam. Sau khi Vietcombank, BIDV... được cổ phần hóa, nếu Chính phủ không nắm cổ phần chi phối thì liên kết này tất sẽ suy yếu, tức các khoản vay chỉ đạo của Chính phủ sẽ giảm thiểu và đây là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế. Theo tính toán của các tổ chức quốc tế thì các khoản nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh đều rất lớn, có thể họ còn bị âm vốn, tức là phá sản về mặt kỹ thuật.

Tuy nhiên, việc tính toán này không bao quát được giá trị tài sản vô hình của các ngân hàng là thương hiệu, mạng lưới chi nhánh... Nếu quá trình cổ phần hóa đi theo một hướng thích hợp và các ngân hàng được độc lập hơn về mặt nhân sự, chính sách thì bộ máy quản trị mới hi vọng sẽ tích hợp được vốn vô hình vào vốn hữu hình.

Lúc đó, các ngân hàng sẽ “giàu” hơn lên rất nhiều, tiếp tục đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự phát triển của nền kinh tế trong lúc thị trường vốn của chúng ta chưa lớn lên kịp. Ngược lại, nếu liên kết cũ vẫn được duy trì thì...

Ông nghĩ sao trong trường hợp cần nguồn vốn lớn để bơm cho các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ không cần dựa vào các ngân hàng nữa mà sẽ thân chinh đi phát hành trái phiếu quốc tế như đã từng làm đối với Vinashin?

Đợt phát hành trái phiếu quốc tế vừa qua không nên chỉ nhìn nhận rằng chúng ta đã bị thua thiệt do lãi suất cao như dư luận từng nêu ra. Điều tích cực nhất là đợt phát hành này được “đóng dấu” như là điểm đầu tiên trong đường cong lãi suất để làm cơ sở cho các doanh nghiệp lớn như Vinamilk, Gemadept, Kinh Đô... phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế sau này.

Nó cũng là một cột mốc quan trọng để “nói” với thế giới rằng Việt Nam không chỉ biết nhận ODA, FDI hay kiều hối mà còn có thể bước vào thị trường tài chính thế giới một cách đĩnh đạc, đường hoàng hơn.

Tuy nhiên, nếu xem xét cho kỹ thì đây là một kiểu trợ cấp khá thô thiển và chúng ta buộc phải chấm dứt càng sớm càng tốt, đặc biệt dưới sức ép của WTO và hội nhập. Có nhiều lý do để chúng ta có thể nghi ngờ những đồng tiền dễ dàng (easy money) này sẽ được sử dụng không hiệu quả.

Chính vì vậy, không thể chỉ trông đợi vào khả năng giám sát của Ngân hàng BIDV mà kiểm toán nhà nước phải lập tức vào cuộc. Bởi nếu Vinashin không trả nợ nổi thì Chính phủ buộc lòng phải tăng thuế của người dân để trả món nợ này. Người dân không nên và không thể là vật hi sinh cho mối liên kết Chính phủ - doanh nghiệp Nhà nước.

Những yếu tố nào mà Mỹ đã sử dụng khi đánh giá tính chất phi thị trường của nền kinh tế Việt Nam?

Có rất nhiều yếu tố nhưng theo UNCTAD (Diễn đàn của Liên hiệp quốc về thương mại phát triển) thì tựu trung có sáu nhóm yếu tố chính. Trước hết, Mỹ sẽ xem xét các mức giá cả được hình thành như thế nào, theo cơ chế thị trường hay do nhà nước áp đặt.

Ví dụ người chủ và công nhân có quyền được thương lượng mức lương phù hợp hay phải ép mình trong khung qui định của nhà nước, ngân hàng và người đi vay có được tự thỏa thuận lãi suất theo tính chất của khoản vay hay không...

Thứ hai, mức độ sở hữu của nhà nước trong việc kiểm soát các nguồn lực của nền kinh tế như nhân công, vốn, tư liệu sản xuất...

Thứ ba, nhà nước kiểm soát việc phân bổ các nguồn lực như thế nào, có áp đặt sản lượng và giá cả hàng hóa của các doanh nghiệp hay không.

Thứ tư, họ sẽ khảo sát phạm vi các doanh nghiệp nước ngoài được tham gia trực tiếp thị trường nội địa, lĩnh vực nào của Việt Nam đang bị áp đặt qui định đầu tư có điều kiện, đầu tư hạn chế, hoặc đóng cửa hoàn toàn.

Thứ năm, Mỹ sẽ xem xét mức độ và khả năng chuyển đổi của đồng tiền, vốn là điểm yếu của đồng tiền Việt Nam. Và thứ sáu, họ sẽ xem xét các vấn đề liên quan đến qui định về xuất nhập khẩu của Việt Nam, đặc biệt về nhập khẩu.

Theo Tuổi Trẻ

Nguồn http://www.vneconomy.com.vn. Ngày 4/6/2006