Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Lộ trình giảm thuế để hội nhập (5/7)

06/08/2010 - 265 Lượt xem

Giảm thuế đến đâu?

Việc mở cửa thị trường hàng hóa được thực hiện thông qua các cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu và tuân thủ các nguyên tắc thương mại về không phân biệt đối xử, rõ ràng... Việc bảo hộ sản xuất trong nước chỉ được thực hiện thông qua thuế nhập khẩu và không được phép duy trì các biện pháp bảo hộ phi thuế quan.

Cam kết  trong WTO

VN đã kết thúc đàm phán song phương về mở cửa thị trường trong nước với toàn bộ 26 nước thành viên có yêu cầu đàm phán thuế. Tổng hợp chung các kết quả đàm phán cho toàn bộ biểu thuế nhập khẩu (10.600 dòng thuế), VN đã cam kết cắt giảm 22% thuế nhập khẩu so mức thuế hiện hành, thực hiện chủ yếu trong vòng năm năm kể từ khi gia nhập WTO. Thuế suất cam kết bình quân tính theo ngành nông nghiệp và công nghiệp cụ thể (xem bảng trên).

Những ngành cắt giảm thuế nhiều nhất gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện.

Cam kết trong các FTA

Khi tham gia các FTA,  VN sẽ phải tự do hóa thuế quan (giảm thuế nhập khẩu xuống 0%) của đại đa số các mặt hàng. Tình hình thực hiện và xu hướng cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam khi tham gia các FTA như sau:

* Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA): VN bắt đầu thực hiện AFTA/CEPT từ 1996 và sẽ giảm thuế nhập khẩu cho hầu hết các dòng thuế xuống mức 0-5% vào 2006, sau đó sẽ xuống 0% vào 2015. Tính đến 2006, đã có 96% số dòng thuế trong biểu thuế có mức thuế suất CEPT trong khoảng 0-5%, mức thuế suất bình quân CEPT/AFTA năm 2006 là 4,7% so với mức thuế suất bình quân của biểu MFN là 17,4%. Tuy nhiên, chỉ những mặt hàng có hàm lượng ASEAN từ 40% trở lên mới được hưởng những ưu đãi  thuế suất thuế nhập khẩu trong AFTA.

Trong thời gian tới, VN sẽ đưa vào diện cắt giảm thuế trong AFTA đối với một số mặt hàng quan trọng bao gồm ôtô, xe máy nguyên chiếc và xăng dầu.

* Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc - ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc bắt đầu thực hiện từ 1-7-2005 cho đến 2015 để đạt đến mức cắt giảm xuống 0%. Tuy nhiên, khác với AFTA, phạm vi cắt giảm thuế nhập khẩu xuống 0% (cho đến 2015) chỉ chiếm 90% tổng số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu. Số dòng thuế còn lại (10% biểu thuế) bao gồm những mặt hàng nhạy cảm đối với nền kinh tế trong nước sẽ được phép bảo hộ với mức độ cao hơn và trong thời gian dài hơn.

Những mặt hàng nhạy cảm này sẽ phải cắt giảm thuế xuống một mức độ nhất định (lớn hơn 0%) vào các năm 2015 và 2018. Những mặt hàng nhạy cảm này bao gồm: trứng gia cầm, đường, thuốc lá, động cơ, phương tiện vận tải, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, sản phẩm điện tử, điện lạnh, giấy... Nguyên tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi theo ACFTA cũng là hàm lượng ASEAN và Trung Quốc phải lớn hơn 40%.

*  Khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác khác (Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc-New Zealand): ASEAN đã và đang đàm phán với các đối tác khác để thành lập khu vực mậu dịch tự do với các đối tác này. Về cơ bản, mô hình khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Hàn Quốc tương tự như của ASEAN-Trung Quốc.

Những khoản trợ cấp bị cấm

WTO phân biệt giữa hình thức trợ cấp được phép với các trợ cấp không được phép. Trợ cấp được phép áp dụng bao gồm các hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ bảo vệ môi trường... Trợ cấp bị cấm, chủ yếu là các khoản trợ cấp xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu, sẽ phải loại bỏ hoàn toàn.

Giữa hai hình thức trợ cấp này sẽ được phép duy trì một số loại trợ cấp cho các ngành sản xuất trong nước, tuy nhiên nếu sau này những sản phẩm được hưởng trợ cấp này được xuất khẩu và gây thiệt hại cho ngành sản xuất tương ứng của nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu đó có thể được phép tiến hành một số biện pháp nhất định để đối phó lại.

Những cam kết về vấn đề trợ cấp của VN khi gia nhập WTO như sau:

- Về trợ cấp nông nghiệp: bỏ toàn bộ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản ngay khi gia nhập; với các khoản hỗ trợ trong nước được duy trì ở mức 10% giá trị sản lượng như các nước đang phát triển khác trong WTO (mức hỗ trợ trong nước thực tế hiện nay đang thấp hơn 10%).

- Về trợ cấp công nghiệp: xóa bỏ từ thời điểm gia nhập các khoản trợ cấp bị cấm (trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu) chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp bị cấm dưới hình thức ưu đãi đầu tư cho xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu sẽ phải bỏ sau năm năm từ thời điểm gia nhập đối với các dự án đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên các ưu đãi này không được áp dụng với các dự án mới thành lập từ sau khi gia nhập. Riêng các khoản trợ cấp bị cấm đang áp dụng với ngành dệt may sẽ phải bỏ ngay từ thời điểm gia nhập.

PV

Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn, ngày 5/7/2006