Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Đề nghị tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại ngân hàng (1/8)

06/08/2010 - 223 Lượt xem

Theo đó, VAFI đề nghị nâng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại lên mức không quá 49%, trong đó nhà đầu tư chiến lược nắm giữ không quá 30% vốn điều lệ, các tổ chức còn lại nắm giữ không quá 10% vốn điều lệ/tổ chức. Đối với Ngân hàng thương mại quốc doanh được cổ phần hoá, sẽ điều chỉnh tỷ lệ cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc duy trì tỷ lệ cổ phần chi phối của Nhà nước.

Trong khi đó, theo Dự thảo thì nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ không quá 30% vốn điều lệ, nhà đầu tư chiến lược được phép sở hữu không quá 20%.

Theo VAFI, với tỷ lệ 49%, việc thu hút nhà đầu tư chiến lược là ngân hàng nước ngoài thuận lợi hơn và trong 5 năm tới, có thể thu hút đầu tư vào 4/5 tổng số ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, khả năng thu hút các tổ chức nước ngoài khác không phải ngân hàng cũng sẽ dễ hơn.

Nếu được đầu tư ở tỷ lệ đến 49% thì mức độ rủi ro cho các nhà đầu tư tài chính sẽ thấp hơn vì khi đó tính thanh khoản của cổ phiếu ngân hàng cao hơn. Và như vậy khả năng tăng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Hiện nay, các ngân hàng VN đang ở khoảng cách rất xa so với ngân hàng khu vực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý... Vốn điều lệ bình quân của các nước khu vực hiện nay từ 1 - 2 tỷ USD/ngân hàng. VAFI dự đoán rằng, nếu thực hiện theo tỷ lệ 49% thì qui mô vốn điều lệ trung bình của toàn hệ thống ngân hàng có thể đạt 400 triệu USD/ngân hàng. Thay vì chỉ đạt 100 triệu USD như phương án 30%.

Khi được tham gia sâu hơn với tỷ lệ 49% thì mức độ hợp tác của nhà đầu tư chiến lược đối với ngân hàng Việt Nam tăng lên, nhất là những dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao như ngân hàng đầu tư, chứng khoán, bảo lãnh phát hành...

Trong khi đó, khả năng chi phối, thôn tính ngân hàng trong nước là không đáng lo ngại. Theo VAFI, với tỷ lệ 49%, khả năng chi phối cao hơn nhưng không tuyệt đối. Cổ đông chiến lược nắm giữ 30% không thể chi phối ngân hàng trong nước, không có khả năng thôn tính vì theo Luật Doanh nghiệp hiện hành, những quyết định quan trọng tại Đại hội cổ đông phải đạt sự đồng thuận của 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên. Trong khi đó, cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ 25% vốn điều lệ có quyền phủ quyết mọi quyết định quan trọng tại Đại hội cổ đông.

Bên cạnh đó, về điều kiện để các tổ chức tín dụng nước ngoài được mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam theo dự thảo ngân hàng đó phải có tổng tài sản tối thiểu tương đương 20 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm đăng ký mua cổ phần; và được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi.

Theo VAFI, nếu theo qui định trên thì chỉ có 1 số ít các ngân hàng lớn của nước ngoài có thể mua cổ phần ngân hàng trong nước. Và tất nhiên họ sẽ chỉ lựa chọn mua cổ phần của các ngân hàng Việt Nam hoạt động hiệu quả. Nếu qui định trên được Luật hoá thì có lẽ qui chế bán cổ phần cho tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ dành cho khoảng 1/3 tổng số ngân hàng thương mại và với tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế là 20% vốn điều lệ. Như vậy, khó đạt được mục tiêu đưa hệ thống ngân hàng thương mại VN lớn mạnh nhanh chóng.

VAFI cho rằng, không nên quy định về điều này mà để quyền quyết định thuộc về các ngân hàng. Ngân hàng cổ phần chắc chắn có trình độ để lựa chọn được các nhà đầu tư tốt cho mình.

Đông Hiếu

Nguồn: http://www.vietnammet.vn, ngày 1/8/2006