Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Vốn nước ngoài trong ngân hàng thương mại: Vì sao nên là 49%?

06/08/2010 - 242 Lượt xem

Theo dự thảo Nghị định về Tổ chức tín dụng nước ngoài đang trình Chính phủ, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được nắm giữ tối đa 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Trong đó, tổ chức tín dụng nước ngoài được sở hữu tối đa 10%; một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài sở hữu tối đa 20%; một công ty quản lý quỹ đầu tư sở hữu tối đa 5% và tổng mức sở hữu của các công ty quản lý quỹ trong một ngân hàng không quá 10%.

Ngoài ra, dự thảo cũng quy định một tổ chức tín dụng nước ngoài được tham gia Hội đồng quản trị tại không quá 2 ngân hàng Việt Nam. Một ngân hàng hoặc tập đoàn tài chính nước ngoài chỉ được là nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tại một ngân hàng Việt Nam.

Theo nhận xét của VAFI, các quy định trên dựng nên nhiều rào cản trong việc thu hút nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vào lĩnh vực này, đồng thời giảm khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại. VAFI kiến nghị cho phép nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 49% vốn điều lệ của một ngân hàng, trong đó nhà đầu tư chiến lược nắm giữ không quá 30% vốn điều lệ, các tổ chức còn lại nắm giữ không quá 10% vốn điều lệ / 1 tổ chức. Đối với Ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hoá, nhà nước sẽ điều chỉnh tỷ lệ cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc duy trì tỷ lệ cổ phần chi phối của nhà nước.

Bản đề xuất của VAFI đã phân tích cụ thể một loạt tiêu chí để so sánh “thiệt hơn” giữa hai phương án xác định tỷ lệ sở hữu. Tiêu chí được đặt lên hàng đầu là khả năng thu hút đầu tư, đặc biệt từ các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. VAFI cho rằng với phương án giới hạn 30%, trong giai đoạn 5 năm tới chỉ có thể thu hút đầu tư vào 1/3 tổng số ngân hàng cổ phần Việt Nam. Nếu mở rộng tới 49%, khả năng thu hút đầu tư sẽ cao hơn rất nhiều (4/5 tổng số ngân hàng thương mại).

Mặc khác, ngoài tỷ lệ khống chế, việc sở hữu cổ phần tại các ngân hàng thương mại Việt Nam còn bị “xiết chặt” từ hai phía. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, Dự thảo quy định tổ chức tín dụng không phải là quỹ đầu tư muốn mua cổ phần phải có tổng tài sản tối thiểu tương đương 20 tỷ Đôla Mỹ; có kinh nghiệm hoạt động quốc tế; được các Tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi.

VAFI khẳng định qui định trên thì chỉ có một số ngân hàng lớn nước ngoài sẽ lựa chọn mua cổ phần của một số ngân hàng cổ phần Việt Nam hoạt động hiệu quả. Toàn bộ các đối tượng nước ngoài khác như quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư và các loại pháp nhân nước ngoài khác sẽ không được mua cổ phần. Còn công ty quản lý quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam chỉ có số vốn vài triệu đô la.

Đối với ngân hàng thương mại trong nước, không phải ngân hàng nào muốn bán là bán. Điều kiện để bán cổ phần cho tổ chức tín dụng nước ngoài là vốn điều lệ tối thiểu 500 tỷ đồng; tình hình tài chính lành mạnh; bộ máy quản trị điều hành hoạt động hiệu quả; không vi phạm các qui định về an toàn trong hoạt động ngân hàng.

Khoan hãy nói về những điều kiện chưa rõ ràng như tài chính lành mạnh, hoạt động hiệu quả, mà điều quan trọng là chính những ngân hàng yếu, không hội đủ các điều kiện trên càng cần phải được đổi mới, thu hút vốn, công nghệ, trình độ quản lý... từ các nhà đầu tư nước ngoài.

Một vướng mắc khá nhỏ nhưng quan trọng là khái niệm nhà đầu tư nước ngoài. VAFI cho rằng cách giải thích hiện tại về khái niệm “Tổ chức tín dụng nước ngoài” chưa bao hàm các tổ chức tín dụng nước ngoài, các định chế tài chính nước ngoài được thành lập tại Việt Nam như ngân hàng nước ngoài được thành lập 100% vốn tại Việt Nam hay công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán nước ngoài được thành lập chi nhánh tại Việt Nam theo Luật Chứng khoán.

VAFI kiến nghị bỏ khái niệm “Tổ chức tín dụng nước ngoài” và thay bằng khái niệm “Nhà đầu tư nước ngoài”. Khái niệm này cần được diễn giải theo hướng khuyến khích đông đảo các loại tổ chức nước ngoài và cá nhân nước ngoài tham gia mua cổ phần tại các Ngân hàng thương mại. Cụ thể bao gồm: cá nhân nước ngoài; Việt kiều; tổ chức 100% vốn nước ngoài, không phân biệt thành lập trong nước hay nước ngoài; doanh nghiệp có vốn FDI chiếm 51% vốn điều lệ.

Tỷ lệ sở hữu giới hạn 30% cũng cần xem xét dưới một góc độ khác là quy mô vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn quá nhỏ. Theo dự đoán của VAFI, quy mô trung bình của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD/ngân hàng. Đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 1-2 tỷ USD/ngân hàng ở các nước trong khu vực. Mức vốn quá nhỏ và lại bị giới hạn thấp liệu có đủ kích thích các ngân hàng nước ngoài thực sự đóng vai trò nhà đầu tư chiến lược hay chỉ đóng vai trò nhà đầu tư kinh doanh kiếm lời từ việc mua cổ phiếu?

Về mức độ an toàn trước khả năng bị thâu tóm trên thị trường chứng khoán, dự thảo vẫn “chặt” khi xác định ngân hàng niêm yết là doanh nghiệp đặc thù, bị khống chế tỷ lệ sở hữu 30% thay vì 49% như các doanh nghiệp khác.

VAFI nhận định nếu nâng lên mức 49% thì khả năng bị chi phối có cao hơn nhưng không phải tuyệt đối. Cổ đông chiến lược nắm giữ 30% không thể chi phối ngân hàng trong nước theo mục đích cục bộ, không có khả năng thôn tính vì theo Luật Doanh nghiệp hiện hành, những quyết định quan trọng tại Đại hội cổ đông phải đạt sự đồng thuận của 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ 25% vốn điều lệ có quyền phủ quyết mọi quyết định quan trọng tại Đại hội cổ đông.

Về các căn cứ khác như độ rủi ro cho các nhà đầu tư tài chính, mức độ hợp tác của nhà đầu tư chiến lược đối với ngân hàng Việt Nam, niềm tin đối với nhà đầu tư chứng khoán, khả năng tác động tới thị trường vốn, khả năng thay đổi quản trị doanh nghiệp…, phương án nâng tỷ lệ sở hữu lên 49% đều thuận lợi và thuyết phục hơn.

 

Nguyễn Hoàng

Nguồn: http://www.vneconomy.com.vn, ngày 3/8/2006