Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Đứng trước cơ hội, doanh nghiệp đừng tự trói mình (21/08)

06/08/2010 - 233 Lượt xem

Câu chuyện thứ nhất: Cơ quan A là đơn vị sự nghiệp có thu, vừa có chức năng kinh doanh dịch vụ, vừa có nhiệm vụ quản lý. Năm 2003 đơn vị này thấy cơ hội mua lại hạ tầng kỹ thuật của một doanh nghiệp liên doanh nước ngoài với Việt Nam, điều này cũng phù hợp với việc quản lý của ngành.

Đơn vị đã xin ý kiến Tổng công ty là cơ quan chủ quản của mình. Tổng giám đốc có văn bản đồng ý. Kết quả đơn vị A mua lại hạ tầng kỹ thuật của doanh nghiệp liên doanh giá 5 tỷ đồng.

Thế nhưng sau đó Tổng công ty lại không đồng ý quyết toán. Lý do Tổng công ty đưa ra là đơn vị A đã làm sai nguyên tắc, mua lại hạ tầng trong khi không có quyết định đầu tư… Tổng công ty triệu tập Giám đốc và kế toán trưởng làm kiểm điểm.

Tuy nhiên trong ngành, kể cả trong lãnh đạo Tổng công ty, đều công nhận rằng việc mua lại hạ tầng kỹ thuật này là một việc làm có lợi, một thắng lợi lớn trong kinh doanh và quản lý. Chính vì vậy, mặc dù đã kiểm điểm, nhưng Tổng công ty cũng không biết xử lý đơn vị A và Giám đốc như thế nào. Và dĩ nhiên, số tiền 5 tỷ vẫn không được quyết toán.

Thời gian cứ thế trôi đi và mới đây, khi trong ngành có chủ trương phân cấp, mức giao dịch 5 tỷ thuộc quyền đơn vị thành viên được thanh quyết toán và tự chịu trách nhiệm, đơn vị A mới thanh quyết toán được với doanh nghiệp liên doanh kia.

Câu chuyện thứ hai: Tổng công ty giao cho các đơn vị thành viên bán một sản phẩm của ngành. Chỉ tiêu giao mỗi tỉnh thành, mỗi đơn vị thành viên từ vài chục đến vài trăm tỷ. Số tiền bán sản phẩm được đưa vào doanh thu. Tuy nhiên Tổng công ty lại quy định và giao cơ chế bán hàng, hoa hồng, khuyến mãi… cho mỗi đơn vị ở mỗi tỉnh khác nhau. Theo Giám đốc các đơn vị thành viên, việc này sẽ gây ra những phức tạp nhất định trong việc thực hiện nhiệm vụ của các tỉnh, và không thể chính xác trong việc đánh giá năng lực của các đơn vị.

Đơn vị A xác định để bán được sản phẩm, phải khuyến mãi mới cạnh tranh được với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đơn vị này đã khuyến mãi bằng hàng, tặng quà cho các đại lý bán hàng và chi tiền khuyến mãi, với mức dưới 30% giá trị sản phẩm. Hoạt động này được các cơ quan quản lý tài chính, cơ quan thuế chấp nhận vì nằm trong khung quy định chung của Nhà nước về hoạt động khuyến mãi. Các đơn vị thành viên ở các tỉnh khác cũng khuyến mãi tương tự như cơ quan A.

Kết thúc các đợt bán hàng, đơn vị A đã đem về doanh thu đạt yêu cầu đặt ra. Các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính, UBND tỉnh đánh giá đơn vị này đã năng động trong cạnh tranh và đạt hiệu quả tốt, có cả việc tặng bằng khen.

Tuy nhiên, lại vẫn Tổng công ty cho rằng đơn vị đã vi phạm những quy định của ngành mà cụ thể là quy chế tạm thời về quảng cáo, khuyến mại dịch vụ của Tổng công ty ban hành. Tổng công ty yêu cầu tổ chức kiểm điểm hành chính và trách nhiệm vật chất đối với Giám đốc và kế toán trưởng.

Theo lời vị Giám đốc đơn vị A, giả sử cứ cho rằng đơn vị đã hoạt động không theo quy định của ngành, cho rằng “làm trái”, nhưng lại đạt hiệu quả, thì việc kiểm điểm Giám đốc là không hợp lý và cứng nhắc. Lẽ ra, khi cơ chế chưa có, đơn vị thành viên đã tìm giải pháp để giải quyết công việc, đó là sự năng động cần phải được xem xét với cái nhìn tích cực.

Chẳng hạn, việc mua lại hạ tầng kỹ thuật là việc chưa có xưa nay, chưa tạo thành tiền lệ và chưa có bất cứ quy định nào. Nếu hoạt động mua lại này đem lại kết quả tốt, Tổng công ty cần phải nghiên cứu với cái nhìn đó là một gợi ý về cách làm mới. Có thể từ đó là những gợi ý để phá bỏ những cơ chế cũ nay đã lạc hậu trở thành rào cản. Qua đó, có thể đặt ra quan điểm cần phát huy tính năng động của cơ sở.

Hoặc ở trường hợp bán sản phẩm có khuyến mãi, có thể cho thấy một yêu cầu búc xúc là cần giao quyền chủ động cho cơ sở, thành viên. Khuyến mãi là hoạt động bình thường trong kinh doanh. Đơn vị A tổ chức khuyến mãi thực chất chỉ mới ở mức độ chủ động giải quyết tình huống chứ không phải là sự sáng tạo hoàn toàn mới. Chỉ mới ở mức độ này, cơ quan quản lý đã cho rằng vi phạm. Vậy là tự mỗi ngành đã đặt ra những quy định riêng để trói chân trói tay các đơn vị dưới quyền.

Chính vì những ràng buộc máy móc như vậy khiến các đơn vị thành viên trực thuộc khó phát huy sáng kiến trong công việc. Giám đốc công ty A nói rằng đơn vị của ông đã có những giải pháp về sáng kiến tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng, đem trình lên nhưng Tổng công ty không đồng ý cho thực hiện. Vì vậy, mặc dù thấy rõ cái lợi nhưng ông vẫn không dám thực hiện, vì sợ lại bị quy vào làm trái quy định của ngành.

Dưới cái nhìn của các doanh nghiệp tư nhân hay liên doanh, việc làm của đơn vị A chẳng có gì là đặc biệt. Bởi tìm con đường mới trong sản xuất kinh doanh, tìm giải pháp cạnh tranh và tiết kiệm, chỉ là công việc thông thường mỗi ngày và là nhiệm vụ của mỗi đơn vị, mỗi nhân viên. Nếu doanh nghiệp không đổi mới, có nghĩa là đã tự mình đi thụt lùi.

Giáo sư Dwight Perkins, nguyên Viện trưởng Viện Phát triển Quốc tế của Đại học Harvard, đã phân tích một trong những lý do tại sao được ưu đãi hơn nhưng doanh nghiệp nhà nước khó cạnh tranh được với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Một khi cơ hội đến, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể quyết định rất nhanh, kể cả tự mình phải chấp nhận rủi ro. Nhưng trước một cơ hội như vậy, doanh nghiệp nhà nước phải báo cáo cấp trên, cấp trên lại phải xin ý kiến cấp trên nữa... vậy là cơ hội qua đi. Không ngạc nhiên khi đã từng có nhiều quyết định kinh doanh của doanh nghiệp cứ phải chờ đến tận ý kiến chỉ đạo của... Thủ tướng.

Trong nền kinh tế hội nhập, tất cả nên chơi cùng một luật chung. Việc phát huy tính năng động, phá dỡ những rào cản… là việc Nhà nước đang khuyến khích. Nếu mỗi ngành tự đặt ra “quy định nội bộ” chẳng khác nào lấy dây tự trói buộc mình.

Đặng Vỹ

Nguồn:
Vietnamnet