Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Lần đầu tiên HSBC công bố xếp hạng tín dụng đối với Việt Nam (12/9)

06/08/2010 - 320 Lượt xem

Đây cũng là lần đầu tiên HSBC công bố xếp hạng tín dụng đối với Việt Nam.

Theo bản báo cáo này, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong những năm qua. Trong thập kỷ trước, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Việt Nam ở mức bình quân 7,2%. Tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ (với thu nhập đầu người dưới 1USD/ngày) đã giảm từ mức 51% vào năm 1990 tới mức 8% vào thời điểm hiện tại.

HSBC nhận định, Chính phủ Việt Nam coi việc duy trì tốc độ tăng trưởng là một trong những ưu tiên hàng đầu nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng “thu nhập thấp” vào năm 2010, đạt  mức GDP bình quân đầu người hàng năm là 1.000USD. Cùng với đó là việc phấn đấu đạt các mục tiêu giảm nghèo cũng như các mục tiêu xã hội khác.

Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7,5% - 8% cho giai đoạn 5 năm tới. Trên cơ sở các lợi thế của nền kinh tế Việt Nam, các chuyên gia của HSBC hoàn toàn tin tưởng Việt Nam có thể đạt được mục tiêu này.

Cơ cấu dân số của Việt Nam rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và được coi là một động lực quan trọng cho sự tăng trưởng trong thập kỷ tới. Tốc độ tăng trưởng của số dân trong độ tuổi lao động là 2,3% trong vòng năm năm tới.

Bản báo cáo dự đoán, cùng với sự giảm xuống của tỷ lệ thất nghiệp, số người có việc làm sẽ tăng ở mức 2,5% mỗi năm. Chất lượng nhân công cũng sẽ tăng lên nhanh chóng nhờ giáo dục được phổ cập ở bậc tiểu học và trung học cơ sở.

Mặt khác, sự tăng lên trong đầu tư tài sản cố định sẽ góp phần cải thiện năng suất lao động. Đầu tư tài sản cố định ở Việt Nam tăng nhanh trong thập kỷ vừa qua, đóng góp tới gần một nửa tăng trưởng GDP. Nhờ đó, tỷ lệ của đầu tư tài sản cố định so với GDP đã tăng nhanh chóng từ mức 10% trong năm 1985 tới mức 33% vào năm 2004.

Sự tăng năng suất lao động còn xuất phát từ việc dịch chuyển lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Sản lượng nông nghiệp hàng năm tăng trưởng ở mức khoảng 4% trong khi lĩnh vực công nghiệp tăng trưởng 8%, chủ yếu dựa vào khu vực chế tạo với tốc độ tăng trưởng hiện đã ở mức hai con số.

Trong 5 năm vừa qua, khu vực dịch vụ tăng trưởng ở mức 7%/năm. Trong tương lai gần, ngành công nghiệp có thể sẽ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 10%, và lĩnh vực dịch vụ, 8%/năm, bản báo cáo cho biết.

Nhu cầu về vốn của nền kinh tế sẽ tiếp tục tăng cao trong những năm tới. Trong giai đoạn 5 năm tiếp theo, Việt Nam sẽ cần một khoản vốn đầu tư khoảng 140 tỷ USD, nhằm đạt mục tiêu của Chính phủ đưa tỷ lệ đầu tư so với GDP lên mức 40% vào năm 2010.

Tuy nhiên, có thể huy động lượng vốn tiết kiệm đủ để đáp ứng nhu cầu này miễn là nền kinh tế toàn cầu tránh được những cú sốc lớn. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa so với GDP trong những năm gần đây ổn định ở mức 31% - 33%. Lượng vốn còn thiếu có thể sẽ được bù đắp bởi đầu tư nước ngoài và kiều hối.

Công cuộc Đổi mới của Việt Nam đã kéo dài 20 năm nhưng còn nhiều việc cần phải làm để tăng cường hiệu quả kinh tế và năng suất lao động. Ở cấp độ vĩ mô, Chính phủ Việt Nam đang áp dụng chính sách cải cách gồm 4 điểm nhằm tăng cường định hướng thị trường, hiệu quả và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế, đó là: cổ phần hoá các doanh nghiệp sở hữu nhà nước, cổ phần hoá các ngân hàng thương mại sở hữu nhà nước, tăng cường và cải thiện khung pháp lý cho thị trường vốn và chống tham nhũng. Những biện pháp này sẽ giúp tăng cường sức hấp dẫn của thị trường vốn của Việt Nam.

Địa vị thành viên WTO sẽ đóng một vai trò rất quan trọng đối với Việt Nam. Nhờ nhiều biện pháp cải cách, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu hàng hoá so với GDP đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 1998 và vượt mức 50% vào năm ngoái. Các chuyên gia của HSBC tin tưởng rằng, việc gia nhập WTO sẽ có ít tác động xét về mặt vĩ mô trong ngắn hạn nhưng sẽ đem lại những hiệu quả tích cực trong dài hạn, nhờ sự mở rộng thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh.

Bản báo cáo nhận xét, chính sách quản lý tiền tệ và tài chính của Việt Nam nhìn chung là thận trọng và có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng kinh tế nhờ giữ lạm phát, cán cân tài chính và tài khoản vãng lai và tỷ lệ nợ ở mức hợp lý. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước được kỳ vọng sẽ chuyển dần từ chỗ hướng dẫn cho vay chính sách sang điều tiết lạm phát và hoạt động của ngành ngân hàng.

Đồng thời, chính sách tiền tệ sẽ dần được nới lỏng cùng với sự giảm xuống của tỷ lệ lạm phát và việc cải thiện chính sách tài chính sẽ tập trung vào việc phân bổ ngân sách một cách hợp lý và minh bạch.

Theo HSBC, đồng Việt Nam sẽ vẫn được thả nổi có kiểm soát và sự giảm giá của đồng tiền này so với đồng USD được dự báo là sẽ tiếp tục ở mức 1% trong năm nay. Việc áp dụng pháp lệnh ngoại hối mới đang dần giảm bớt những hạn chế đối với các giao dịch vốn.

Chỉ số xếp hạng tín dụng ngoại tệ mà HSBC dành cho Việt Nam là BB / ổn định, bằng mức mà Standard & Poor (S&P) dành cho Việt Nam, nhưng cao hơn mức BB- theo đánh giá của Fitch và Moody’s. Các chuyên gia của HSBC đưa ra chỉ số đánh giá này dựa trên cơ sở sự tăng trưởng năng động của nền kinh tế, môi trường chính trị ổn định và những tiến bộ trong chương trình cải cách cơ cấu của Việt Nam.

Họ dự đoán trong thời gian không xa, các tổ chức đánh giá tín dụng trên cũng sẽ nâng mức xếp hạng cho Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO.

Bên cạnh việc khẳng định triển vọng khả quan của nền kinh tế Việt Nam, bản báo cáo của HSBC cũng cho thấy không ít những vấn đề còn tồn tại. Đó là việc Việt Nam còn thiếu nhiều lao động có trình độ cao. Nhu cầu vốn tăng cao cho phát triển kinh tế phần nào phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, một phần xuất phát từ hiệu quả thấp của khu vực kinh tế nhà nước. Nạn tham nhũng cũng như những yếu kém của nền giáo dục cần được giải quyết. Khu vực xuất khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm cơ bản, vv.

Ngoài ra, có nhiều yếu tố cản trở việc nâng chỉ số xếp hạng tín dụng của Việt Nam, đó là tỷ lệ sở hữu nhà nước trong nền kinh tế còn ở mức cao (36,6% vào cuối năm 2004, tăng so với mức 35,8% vào năm 2000), nợ tiềm tàng, khung pháp lý chưa hoàn thiện, kỹ thuật quản lý rủi ro tín dụng còn hạn chế và việc cải thiện chất lượng cũng như tính kịp thời của các dữ liệu kinh tế.

Minh Đức - Kiều Oanh

Nguồn:
http://www.vneconomy.com.vn, ngày 12/9/2006