Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

"Thị trường xây dựng ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành" (14/9)

06/08/2010 - 276 Lượt xem

Với nhu cầu xây dựng và khả năng đáp ứng của ngành xây dựng, ông đánh giá thị trường xây dựng ở Việt Nam hiện nay như thế nào?

Trải qua 20 năm đổi mới, ngành xây dựng đã có những bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại. Không chỉ trong lĩnh vực xây dựng công trình, vật liệu xây dựng, kiến trúc và quy hoạch xây dựng mà còn cả những lĩnh vực khác: phát triển đô thị và nhà ở, năng lực xây dựng công trình có nhiều tiến bộ, đáp ứng ngày  càng tốt hơn nhu cầu xây dựng.

Điều đáng nói là nhiều công trình có quy mô lớn, đòi hỏi chất lượng cao, công nghệ hiện đại, khoa học công nghệ xây dựng tiên tiến, ngành xây dựng đã hoàn thành được, trên một số lĩnh vực đã đạt tới trình độ quốc tế và khu vực. Vì vậy, tới thời điểm này có thể nói thị trường xây dựng ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành.

Có thể nói, với giá trị sản lượng của ngành xây dựng đạt mức tăng trưởng bình quân khoảng 16,5%/năm, giá trị gia tăng 10%, thị trường xây dựng đã trở thành yếu tố quan trọng góp phần vào sự nghiệp tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị của đất nước.

Điểm nôi bật trong thời gian qua là sự thay đổi của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng. Tư duy nhạy bén, chủ động, sáng tạo, tiếp cận và hoà nhập nhanh với cơ chế thị trường, chú trọng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, thực hiện phương châm đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, đa phương hoá quan hệ và đa dạng hoá sở hữu trở thành những ưu điểm của ngành.

Hiện Bộ Xây dựng đang chú trọng phát triển các doanh nghiệp lớn, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở chuyên môn hoá cao, nâng hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh đã giúp các doanh nghiệp phát triển nhanh về chất.

Nếu những năm trước đây, các doanh nghiệp chỉ đi làm thuê là chính thì đến nay họ đã vươn lên trở thành các chủ đầu tư của nhiều dự án lớn. Đây chính là yếu tố quan trọng để tạo nên một thị trường xây dựng ổn định và bền vững.

Sức cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn còn bị hạn chế bởi đặc thù của ngành là cần vốn lớn cho những sản phẩm gắn liền với đất đai, không gian và môi trường. Nhận định của ông về khả năng phát triển của doanh nghiệp trong ngành?

Nói tới đặc thù của ngành cần phải chú trọng cả yếu tố loại hình hoạt động. Đây là loại hình sản xuất vật chất đặc thù có sự kết hợp từ ý tưởng quy hoạch xây dựng, thiết kế, sản xuất và cung ứng vật liệu, vật tư kỹ thuật, xây dựng công trình hoàn thành, hình thành tài sản cố định đưa vào sử dụng đến bảo hành, bảo trì và chuyển dịch chủ quyền.

Vì thế, mọi thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn đều được ứng dụng và kết tinh trong sản phẩm xây dựng. Chính điều này khiến sản phẩm xây dựng chứa đựng nhiều hàm lượng chất xám và giá trị vật chất.

Thế nhưng, trong thực tế, các doanh nghiệp xây dựng, những chủ thể tạo ra sản phẩm này lại hạn chế về vốn. Vấn đề đáng nói ở đây là họ còn bị hạn chế bởi các nguồn vốn chủ yếu như ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất khó tiếp cận vì doanh nghiệp xây dựng không có tài sản thế chấp và khả năng vay tín chấp rất hạn chế.

Mặc dù vậy, với khả năng phát triển hiện nay, tôi tin rằng các doanh nghiệp xây dựng sẽ dần dần gỡ được những khó khăn và phát triển tốt.

Điều tạo nên cơ sở cho nhận định trên chính là những kết quả mà doanh nghiệp xây dựng trong thời gian qua. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp đã tiếp cận nhanh với công nghệ mới, trang bị thêm nhiều thiết bị hiện đại, từng bước đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, tư vấn, thi công xây dựng những công trình quy mô lớn, hiện đại. Năng lực quản lý kể cả quản lý hợp đồng đấu thầu EPC, quản lý đầu tư theo hình thức BOT, BT, BOO các công trình đã có bước tiến bộ vượt bậc.

Bên cạnh đó doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng hoặc nhận thầu xây dựng ở hầu hết các công trình trọng điểm của quốc gia, các ngành và địa phương, của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hoặc của Việt Nam ra nước ngoài. Đặc biệt lực lượng thi công cầu đường, công trình ngầm của các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Xây dựng đã phát triển nhanh.

Với những điều kiện hiện nay, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng các doanh nghiệp xây dựng của Việt Nam có thể đủ sức cạnh tranh trong môi trường hội nhập, trong một thị trường xây dựng chuyên nghiệp với nhiều nhà thầu quốc tế và nhu cầu ngày càng cao.

Ông nhận định như thế nào về khả năng thu hút từ nguồn vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng?

Giai đoạn 2001- 2005, tổng giá trị sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng là 14,3 tỷ USD, đạt gần 279% so với giai đoạn 1996- 2000. Cũng trong giai đoạn này, các doanh nghiệp trong Bộ Xây dựng đã triển khai hơn 700 dự án các loại. Vốn đầu tư thực hiện hơn 51.000 tỷ đồng (tương đương 3,29 tỷ USD), trong đó tập trung vào các lĩnh vực phát triển nhà ở, khu đô thị, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ điện, giao thông... 

Đứng ở góc độ tham mưu cho việc hoạch định chính sách, tôi cho rằng những lĩnh vực này tuy có mang lại hiệu quả đáng kể về kinh tế nhưng cũng cần thu hút một lượng vốn lớn. Vì vậy, yêu cầu mở rộng các nguồn vốn, cũng như khai thác triệt để nguồn vốn vay tư ngân hàng và các tổ chức tín dụng là vô cùng cần thiết. Do đó, chúng tôi đã và đang đặc biệt chú trọng tới những biện pháp để nối kết với các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

Vừa qua, chúng tôi đã tổ chức một cuộc hội thảo gồm các đơn vị trong ngành xây dựng và các ngân hàng để tìm ra phương pháp hữu hiệu nhất cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn. Kết quả khá khả quan khi ngay tại cuộc họp một số ngân hàng đã đồng ý cho doanh nghiệp xây dựng vay tín chấp 100%.

Tuy sự chấp thuận này mới ở tỷ lệ và quy mô nhỏ nhưng những điều kiện từ phía ngân hàng đã được các doanh nghiệp hiểu khá rõ, tạo tiền đề cho việc hợp tác hai bên cùng có lợi.

Tuấn Dũng thực hiện

Nguồn: http://www.vneconomy.com.vn, ngày 14/9/2006