
Tin tức
Triển vọng thương mại của Việt Nam trước ngưỡng cửa WTO (18/9)
06/08/2010 - 279 Lượt xem
Đó là nhận định của ông Joseph Tan, chuyên gia kinh tế học thuộc Nhóm nghiên cứu toàn cầu Ngân hàng Standard Chartered về sự chuẩn bị hội nhập thương mại của Việt Nam trước ngưỡng cửa WTO.
Gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa hơn nữa thị trường dịch vụ và ắt hẳn sẽ có rất nhiều thách thức. Vậy ông có lời khuyên gì cho ngành ngân hàng Việt Nam để có thể phát triển trong bối cảnh như vậy?
Chúng tôi rất ấn tượng khi biết Việt Nam cam kết tích cực mở cửa ngành ngân hàng bởi đây là ngành khá nhạy cảm đối với một quốc gia và quá trình này thường mất một thời gian dài.
Nhưng chúng tôi lo lắng nhất định về tốc độ mở cửa vì các ngân hàng trong nước chưa có được một hệ thống quản lý thích hợp ví dụ như trong quản lý rủi ro, trong cơ chế giám sát hay báo cáo. Trong khi đó, các ngân hàng nước ngoài lại liên tục tung ra các sản phẩm tốt hơn rất nhiều. Vì vậy, khi mở cửa, các ngân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn nữa.
Tôi nghĩ giải pháp cho lĩnh vực ngân hàng là phải củng cố toàn bộ hệ thống. Việt Nam có thể gộp 40 ngân hàng như hiện tại thành khoảng 10 hay 15 ngân hàng thật mạnh để tận dụng lợi thế kinh tế dựa trên quy mô. Hơn nữa, rủi ro mang tính hệ thống là cao vì vậy tốt hơn hết là bạn nên có một sự hợp nhất nhiều hơn nữa.
Là một ngân hàng nước ngoài, Standard Chartered cũng muốn bắt tay với các ngân hàng Việt Nam và giúp phát triển hơn nữa khu vực ngân hàng trong nước của các bạn. Về lâu dài, những sự hợp tác như vậy sẽ mang lại lợi ích cho toàn ngành.
Ông có nghĩ rằng Việt Nam có quá ít thời gian để chuẩn bị bước vào đấu trường quốc tế không?
Tôi nghĩ rằng một trong những điều quan trọng là mức độ sẵn sàng mở cửa cho cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của Chính phủ Việt Nam, mức độ đó sẽ là như thế nào so với các nước khác trong châu Á. Có thể lấy Trung Quốc làm ví dụ, họ đã tốn rất nhiều thời gian để mở cửa lĩnh vực ngân hàng.
Chính sách cải cách đang đi đúng hướng, nhưng khung thời gian có thể là chưa được thiết kế phù hợp vì chỉ còn lại rất ít thời gian. Tất cả mọi người đều nhận ra vấn đề nhưng nói chung Việt Nam còn thiếu một nhóm công tác để giải quyết vấn đề.
Tôi muốn chia sẻ một ví dụ: Singapore vào những năm 2003- 2004 đã trải qua việc phải tái cơ cấu kinh tế và họ đã mời một số chuyên gia, một vài bộ trưởng để thành lập ra một nhóm công tác để đưa ra những hoạch định, cùng tìm hiểu xem vị trí hiện tại của Singapore trong cạnh tranh, vì sao Singapore để mất đi việc làm, nhà máy, mất cơ hội đầu tư vào tay Trung Quốc. Kết quả là nhóm công tác này đã làm rất tốt việc cải thiện tình hình kinh tế đất nước.
Theo tôi, các bộ trưởng nên cùng nhau họp lại và thành lập một nhóm hoạt động để xác định vị trí của Việt Nam về mặt thương mại, quản lý doanh nghiệp, hay về mặt chính sách thuế chúng ta đang đứng ở đâu, qua đó họ có thể có một bức tranh tổng thể về nền kinh tế. Tôi nghĩ rằng các vấn đề sẽ được giải quyết nhanh hơn một khi được nhìn nhận đúng.
Ông có ý kiến gì về sự biến động của đồng Đôla so với Việt Nam đồng?
Ngân hàng Nhà nước xác định biên độ dao động của tỉ giá hối đoái là + 0,25%. Chúng tôi cho rằng đồng Đôla tất yếu sẽ giảm giá. Khi Việt Nam ngày càng hội nhập vào hệ thống giao dịch thương mại thế giới, các bạn cần định giá dựa trên đồng tiền nào có khả năng giảm thiểu những tác động từ bên ngoài lên đồng tiền của các bạn.
Ví dụ, nếu đồng Đôla giảm, và Đồng Việt Nam cũng giảm theo, thì giá nhập khẩu sẽ tăng cao khi các bạn nhập khẩu hàng hoá từ các nước khác trong khu vực.
Tôi tin rằng khoảng 10 năm nữa, Đồng Việt Nam sẽ không chỉ được định giá đơn thuần dựa vào Đồng Đôla. Chúng ta có thể thấy chính sách này qua đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc. Năm ngoái, đồng tiền này đã được thả nổi. Hiện nay còn rất ít loại tiền tệ áp dụng chính sách định giá đơn thuần theo đồng Đôla trong khu vực. Vì vậy tôi nghĩ rằng tiền Đồng trong vòng 10 năm tới cần phải dễ thích nghi hơn, linh hoạt hơn để không gây ảnh hưởng mạnh tới nền kinh tế.
Chúng tôi thấy rằng xuất khẩu ở Việt Nam đang ngày càng tăng vì nền kinh tế đang tăng trưởng. Các tài khoản vãng lai tiếp tục tăng, vì vậy nếu đồng Việt Nam không giữ được thế cân bằng, tôi nghĩ rằng Đồng Việt Nam sẽ tăng giá thay vì hạ giá.
Việt Nam cần định giá đồng tiền trong nước dựa trên một rổ tiền tệ. Trong rổ tiền tệ này, các bạn nên chọn đồng tiền của 15 đến 20 nước có quan hệ thương mại gần gũi với Việt Nam. Giá trị tiền tệ sẽ đồng hành cùng với rổ tiền tệ. Vì vậy tôi nghĩ là ảnh hưởng bao trùm của đồng Đôla sẽ chỉ là chuyện trong quá khứ.
Tuy nhiên, khuynh hướng dễ nhận thấy hiện nay là đồng Đôla đang tăng giá so với đồng Việt Nam. Vậy xin ông cho biết ý kiến về vấn đề này?
Nếu bạn thả nổi tiền Đồng so với Đôla, tôi nghĩ Đồng Việt Nam sẽ chịu áp lực tăng giá. Chúng ta nên có nhóm làm việc chuyên trách của chính phủ như tôi đã đề xuất. Việt Nam đang tiến dần vào WTO, cũng có nghĩa là đang bước vào cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Vì vậy, tiền tệ là một trong những mối quan tâm hàng đầu. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực châu Á cần phải xem xét viễn cảnh của đồng đôla Mỹ và có những chính sách thích hợp.
Vậy xin đưa ra dự đoán của ông đối với nền kinh tế Việt Nam trong trung hạn và dài hạn?
Chúng tôi thấy rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2006 là 8,2% và tôi nghĩ con số này cũng rất phù hợp với dự đoán cũng như mong đợi của chính phủ. Nhưng thật đáng tiếc rằng việc gia nhập WTO kéo dài hơi lâu, vì vậy chúng ta chỉ có thể nhận thấy những lợi ích của viêc gia nhập WTO mang lại kể từ năm 2007 trở đi. Đây cũng là lý do mà chúng tôi tin tưởng mức tăng trưởng của Việt Nam sẽ đẩy nhanh hơn vào năm 2007 ở mức 8,8%.
Tất nhiên là việc gia nhập WTO sẽ đem lại những kết quả tích cực, chúng ta đã nhìn thấy thực tế này từ rất nhiều nước khác và bây giờ là Việt Nam.
Mức xuất khẩu đóng góp vào GDP của Việt Nam có khuynh hướng gia tăng từ năm 1995 đến 2005 và hiện xuất khẩu chiếm khoảng 60% tổng giá trị của GDP. Việc gia nhập WTO đồng nghĩa với cơ hội thâm nhập thị trường tăng, hàng rào hạn ngạch và thuế quan giảm vì vậy tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP sẽ tăng và xuất khẩu sẽ trở thành động lực tăng trưởng chính của Việt Nam.
Bối cảnh của Việt Nam xét về mặt trung hạn là rất khả quan đặc biệt có thể nhận thấy điều này dựa trên sự thành công trong lĩnh vực thương mại.
Hà Linh
