Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Cổ phần hóa: "Có thể giảm bớt lượng doanh nghiệp Nhà nước nắm cổ phần chi phối" (25/9)

06/08/2010 - 234 Lượt xem

Thưa ông, có ý kiến cho rằng, việc Nhà nước nắm tỷ lệ cổ phần chi phối trong một số doanh nghiệp cổ phần hóa sẽ dẫn đến tình trạng kinh doanh không hiệu quả, ý kiến ông thế nào?

Theo tôi, việc Nhà nước nắm cổ phần chi phối với 33% tổng số doanh nghiệp đã cổ phần hoá là tương đối lớn. Có doanh nghiệp bộ máy quản lý cũ vẫn giữ đến 80% nên không đề ra được phương án kinh doanh hiệu quả. Bởi những công ty này phải hoạt động theo quy định của Luật đối với công ty Nhà nước từ phương án kinh doanh, phân phối lợi nhuận thậm chí cả tổ chức bộ máy và nhân sự.

Nên về mặt tâm lý, ở các công ty mà Nhà nước đang giữ cổ phần chi phối thì cung cách quản lý về cơ bản không thay đổi. Do đó cũng gây cản trở cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Bên cạnh đó, việc duy trì cổ phần chi phối của Nhà nước còn làm cho các cổ đông bên ngoài ngại tham gia vì họ sẽ cảm thấy khó có thể thay đổi thực sự khi doanh nghiệp vẫn duy trì cung cách quản lý cũ.

Cùng đó, khi Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì các cổ đông sẽ chỉ còn cổ phần nhỏ, quyền quyết định bị hạn chế và phải phụ thuộc, nên không tạo ra động lực và khuyến khích các nhà đầu tư tham gia. Chính vì vậy sự chuyển đổi của các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối chưa thực sự cao và có chất lượng.

Tôi cũng được biết Nhà nước hiện đang có chủ trương xem xét một cách cụ thể đối với những công ty Nhà nước nắm cổ phần và tới đây sẽ giảm bớt số lượng công ty này, thậm chí cho phép bán bớt cổ phần Nhà nước đang giữ trong các công ty.

Vậy Nhà nước cần nắm giữ cổ phần các doanh nghiệp đến mức độ nào và nắm giữ bao nhiêu phần trăm là hợp lý, thưa ông?

Hiện nay số vốn Nhà nước đã cổ phần hóa chỉ là 12%. Mà ngay trong 12% này Nhà nước vẫn nắm trên dưới 40%, nghĩa là thực ra số vốn cổ phần hoá đã bán ra bên ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì Nhà nước nên xem xét lại, nếu cần thì mới nắm giữ, không thì phải giảm bớt, thậm chí phải nhận thức lại về vấn đề chi phối.

Hiện chúng ta quy định trên 50% vốn là chi phối. Vấn đề này nên xem lại vì thực tế có nhiều công ty Nhà nước chỉ cần nắm 30% hoặc 20% nhưng nếu biết quản lý, có phương án kinh doanh tốt, người lãnh đạo có năng lực thì Nhà nước vẫn chi phối được.

Theo ông, những lĩnh vực nào Nhà nước nên nắm giữ?

Tôi cho rằng cần tiếp tục đẩy mạnh hơn quá trình cổ phần hóa trong những năm tới. Làm sao đến năm 2009, cơ bản đổi mới và sắp xếp xong các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó xác định rõ Nhà nước chỉ nắm giữ những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt, nhạy cảm của nền kinh tế và những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công ích mà những tổ chức khác ngại đầu tư. Còn những gì mà các nhà đầu tư khác có thể tham gia được thì nên tiến hành cổ phần mạnh hơn.

Nhiều người cho rằng tiến độ cổ phần hóa chậm là do có tình trạng né tránh?

Vừa rồi giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát về cổ phần hóa, tôi thấy rằng, tiến trình cổ phần hoá không diễn ra đồng đều và có biểu hiện né tránh, chần chừ vì sợ mất quyền, mất lợi ích.

Nói về lợi ích, theo ông, chúng ta phải làm thế nào để hạn chế tình trạng chiếm đoạt tài sản Nhà nước thông qua cách thức định giá thấp tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hóa?

Trước đây, việc định giá tài sản là chuyện của nội bộ doanh nghiệp, mang tính chủ quan, áp đặt nên xảy ra chuyện doanh nghiệp hoặc được định giá quá cao (không bán được) hoặc quá thấp (thất thoát vốn của Nhà nước).

Tôi cho rằng việc định giá tài sản cần bám vào yếu tố thị trường. Việc đấu giá tài sản Nhà nước phải được làm công khai trên sàn chứng khoán hoặc đưa ra đấu giá trên thị trường trên cơ sở thuận mua vừa bán, có như vậy giá cả mới sát với thị trường.

Theo tôi ở đây tồn tại hai vấn đề: Một là, việc bán ấy có thực sự công khai không? Các thông tin đưa ra có đầy đủ, minh bạch không? Làm sao hạn chế được tình trạng liên kết với nhau trong đấu giá, ém thông tin, tìm cách đưa thông tin không đến đối tượng (chẳng hạn đưa thông tin vào thứ 6 mà thứ 2 đấu giá) khiến nhiều người không có điều kiện tiếp nhận thông tin và việc đấu giá lại diễn ra khép kín.Điều này ít nhiều làm giá trị của cổ phiếu giảm.

Hai là, do cách quyết định phân chia tỷ lệ cổ phiếu giữa việc giải quyết quyền lợi cho công nhân viên chức với các cổ phần ưu đãi, và với các cổ đông chiến lược. Vì điều lệ cho phép bán tối đa 20% tổng vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược với giá rẻ hơn khoảng 2% so với giá đấu giá thành công. Nếu kiểm soát không chặt điểm này thì có thể nó sẽ được dành cho những đối tượng không đúng.

 

Lý Hà thực hiện

Nguồn: http://www.vneconomy.com.vn, ngày 25/9/2006