
Tin tức
Dịch vụ phân phối dưới sức ép cạnh tranh (13/10)
06/08/2010 - 293 Lượt xem
Khi đàm phán gia nhập WTO, mở cửa thị trường bán lẻ là một trong những vấn đề được đàm phán căng thẳng nhất. Việc mở cửa thị trường bán lẻ cũng được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế trong nước và chi phối đến quá trình sản xuất hàng hoá của các doanh nghiệp.
Đã có khá nhiều ý kiến lo ngại về một viễn cảnh ngành thương mại dịch vụ phân phối trong nước sẽ bị “nuốt chửng” bởi một làn sóng các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đến Việt Nam thiết lập các mạng lưới phân phối hiện đại. Trên thực tế, hiện nay trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân phối lớn của thế giới như: Metro Cash&Carry (Đức) các tập đoàn bán lẻ từ Malaysia, Singapore, Hàn Quốc,... cũng đang vào Việt Nam thông qua hình thức liên doanh.
Mới đây, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Thương mại) đã mở một cuộc Đối thoại về dịch vụ phân phối dưới sức ép cạnh tranh giữa cơ quan quản lý Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp.
Cần chú ý những hành vi phản cạnh tranh
Bà Đinh Thị Mỹ Loan -Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Thương mại)
Có thể thấy xu hướng đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ trong thời gian tới sẽ tăng lên đáng rất mạnh với sự lớn mạnh của các công ty phân phối nội địa cũng như sự có mặt nhiều hơn các nhà bán lẻ lớn nước ngoài. Bên cạnh sức ép cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp trong lĩnh vực này cũng sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều những hành vi phản cạnh tranh.
Với hệ thống văn bản pháp lý mới được định hình ở Việt Nam, có thể xuất hiện những hành vi làm giảm sự cạnh tranh giữa các đối thủ như sự phối hợp hành động chung giữa các doanh nghiệp có quyền lực thị trường hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền, những nhà bán lẻ lớn giảm giá thấp hơn chi phí để ngăn cản đối thủ cạnh tranh và sau đó tăng giá (còn gọi là định giá hủy diệt).
Thậm chí, sẽ có những nhà cung ứng sản phẩm, hàng hóa bị ép không được bán hàng hóa, dịch vụ cho đối thủ cạnh tranh của các nhà bán lẻ lớn, bị ép buộc phải mua lại những mặt hàng tồn kho, cũng như phải chấp nhận những yêu cầu thương mại vô lý do những nhà bán lẻ lớn đưa ra.
Không chỉ có vậy, trên thị trường đã và sẽ còn xuất hiện nhiều hành vi phản cạnh tranh khác khi bùng nổ về mặt số lượng cũng như chất lượng dịch vụ phân phối. Ngày càng thấy nhiều hành vi làm cho người tiêu dùng lầm tưởng về hàng hóa, dịch vụ thông qua quảng cáo, khẩu hiệu sai trái hoặc phóng đại quá mức đối với sản phẩm của mình hoặc của đối thủ cạnh tranh.
Thậm chí đã có những loại quảng cáo dối trá nhằm che đậy sự thật hoặc lừa dối người tiêu dùng, ví dụ như quảng cáo giảm giá 50%, thậm chí 90% nhưng thực tế thì vẫn bán với giá cũ,...
Có một thực tế phải tính đến, ở các nước phát triển, cơ quan quản lý cạnh tranh có đủ chức năng và bộ máy kiểm tra và cân đối quyền lực trên thị trường trong lĩnh vực phân phối. Vì thế, trên thị trường ít xảy ra các hành vi phản cạnh tranh như nói trên. Trong khi đó, ở các nước đang phát triển thường không chú trọng thành lập cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc quản lý chưa hiệu quả nên tình trạng là ngược lại.
Tại Việt Nam, Cục Quản lý cạnh tranh mới thành lập từ tháng 6/2006, tuy nhiên đã có đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn trong việc điều tra các vụ việc cạnh tranh, kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ và đặc biệt được quyền xử lý, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Có 3 vấn đề thực tế Việt Nam sẽ phải đối mặt đó là việc thực thi Luật cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, sự can thiệp của cơ quan quản lý Nhà nước đối với thị trường phân phối và các biện pháp tạo môi trường pháp lý nhằm bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trong thị trường bán buôn, bán lẻ.
Mặc dù hiện nay ta chưa trở thành thành viên WTO, nhưng bức tranh toàn cảnh về hệ thống phân phối của nước ta đã rất sôi động. Đứng dưới góc độ của các cơ quan quản lý Nhà nước, ngành phân phối được coi là một ngành kinh tế rất nhạy cảm vì có ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người bán hàng và hàng chục triệu người tiêu dùng, đặc biệt là hệ thống phân phối của một số mặt hàng thiết yếu.
Ngay cả một số quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cao như Nhật Bản, Ấn Độ cũng có xu hướng bảo hộ ngành phân phối của mình rất chặt chẽ. Dưới khía cạnh này, vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh rất quan trọng.
Trên cơ sở Luật Cạnh tranh đã đi vào hiệu lực, cơ quan cạnh tranh có đủ những công cụ can thiệp kịp thời để tạo môi trường cạnh tranh kinh doanh lành mạnh và công bằng.
Lo cho dịch vụ phân phối trong nước
Ông Vũ Vinh Phú - Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội
Hệ thống phân phối ở Việt Nam tính đến đầu 2006 có 9.000 chợ truyền thống, 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và hàng chục ngàn các cửa hàng tiện ích. Hơn 10 năm qua các mạng lưới bán lẻ, phân phối đã được cải tạo nâng cấp, xây mới cho phù hợp với xu thế tiêu dùng ngày càng văn minh hơn.
Tuy nhiên, về doanh số mới chỉ có 10% được thực hiện ở các siêu thị và trung tâm thương mại, 40% ở các chợ, 44% ở các cửa hàng bán lẻ, còn lại các đơn vị sản xuất trực tiếp phân phối là 6%. Các siêu thị và trung tâm thương mại đại diện cho loại hình phân phối, bán lẻ, bán buôn có chất lượng và dịch vụ cao nhưng chủ yếu mới xuất hiện ở các thành phố lớn.
Ngay tại các thành phố lớn thì hệ thống phân phối tuy có tiến bộ song còn nhiều bất cập trước yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập khu vực và quốc tế. Nó đang bộc lộ một số điểm yếu như vốn liếng quá nhỏ, đa số hàng hóa tự chọn tiện ích hiện nay đều là hàng đại lý ký gửi với tỷ lệ 60-70%, tự thu mua để kinh doanh chỉ chiếm 20-30%. Muốn tái sản xuất mở rộng quy mô kinh doanh để tăng thêm thị phần bán lẻ, tự đầu tư vốn để chủ thu mua nguồn hàng trực tiếp để kinh doanh là hết sức khó khăn.
Mặt khác, tính chuyên nghiệp hệ thống phân phối trong nước hiện rất yếu, thể hiện ở chỗ việc tổ chức một hệ thống phân phối ở từng địa phương, khu vực và toàn quốc chưa được đồng bộ, chặt chẽ từ khâu thu mua kiểm định, sơ chế đến đóng gói và bán ra. Công tác xúc tiến thương mại, marketing, dự báo thông tin thị trường chưa được quan tâm và chưa chuyên nghiệp, 60-70% đơn vị kinh doanh chưa sử dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý và kinh doanh, khoảng 20% mới xây dựng được trang web ở mức độ đơn giản, công tác xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu hàng hóa chưa được coi trọng...
Đó là chưa kể hậu cần phục vụ cho hệ thống phân phối như hệ thống kho, phương tiện chuyên dùng, các thiết bị bảo đảm chưa đạt tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế. Đặc biệt là tính chủ động trong hợp tác liên kết, kiên doanh để thu mua, tiêu thụ hàng hóa còn rời rạc, liên kết giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với kinh doanh chưa có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, chủ yếu mạnh ai nấy làm không có sức mạnh tổng hợp chung. Từ đó dẫn đến việc phá vỡ hợp đồng giữa nhà máy, doanh nghiệp phân phối và người nông dân là chuyện thường xuyên xảy ra.
Từ các vấn đề trên, rõ ràng nguy cơ của sự thâm nhập, chiếm lĩnh thị phần bán lẻ, bán buôn của các lực lượng, các “đại gia” phân phối nước ngoài là một điều khó tránh khỏi.
Theo kinh nghiệm ở một số nước đi trước, trong vòng bán kính 3 km, khi một đại siêu thị mở ra thì có khả năng hàng trăm các cửa hàng, các sạp tạp hóa bán lẻ, các siêu thị nhỏ bé, manh mún sẽ bị đóng cửa vì không cạnh tranh được, nhất là về sự đa dạng phong phú của hàng hóa, giá cả, chất lượng phục vụ cũng như chất lượng kinh doanh, vệ sinh an toàn thực phẩm,...
Ngoài các yếu tố cơ bản chủ quan của các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh hiện nay thì yếu tố khách quan, vĩ mô và quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ phân phối cũng còn nhiều điều đáng bàn. Điển hình là sự bất cập trong hạch toán, kiểm toán, kiểm soát cũng như chế tài của Nhà nước đối với hoạt động lưu thông hàng hóa. Điều này đã tạo ra một sự cạnh tranh không bình đẳng, một sự chênh lệch lớn giữa các tổ chức, cá nhân làm ăn nghiêm túc và những người làm ăn phi pháp trên thị trường.
Hội nhập và cạnh tranh đặt ra cho cơ quan quản lý, các doanh nghiệp cũng như cả người tiêu dùng toàn xã hội một bài toán thiết lập một hệ thống phân phối hợp lý, hiện đại, hiệu quả phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trước hết, đó là việc làm sao tạo được một nền sản xuất ngày càng hiện đại, quy mô lớn để tạo tiền đề cho sự phát triển, cạnh tranh của hệ thống phân phối. Từ đó, khẩn trương xây dựng hạ tầng của một hệ thống phân phối hiện đại, hợp lý và khoa học bao gồm hệ thống kho tàng, bến bãi, giao thông, hệ thống kiểm soát chất lượng hàng hóa và nhất là vệ sinh an toàn thực phẩm.
Để làm được điều đó, Nhà nước cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng môi trường pháp lý kinh doanh một cách khả thi và kịp thời để tạo sân chơi minh bạch, công khai và bình đẳng.
Lựa chọn cơ chế phù hợp
Ông Đinh Văn Ân - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Lĩnh vực dịch vụ phân phối có vai trò cầu nối giữa các nhà sản xuất và người tiêu dùng. Chi phí trong khâu phân phối được chuyển vào giá bán cho người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh trong dịch vụ phân phối sẽ góp phần làm giảm chi phí phân phối và việc giảm giá bán cuối cùng cho người tiêu dùng.
Hơn nữa, bản thân hoạt động phân phối cũng tạo thêm lợi ích cho người tiêu dùng thông qua việc tạo ra sự đa dạng về hàng hóa cung ứng, tạo thuận tiện về địa điểm mua bán, thuận tiện về các dịch vụ bảo hành và cung cấp thông tin.
Hoạt động dịch vụ phân phối có tầm quan trọng với nền kinh tế Việt Nam. Lĩnh vực này gồm dịch vụ bán buôn và bán lẻ đóng góp 13-14% vào GDP. Theo số liệu tổng điều tra, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối tăng hơn 2 lần trong thời kỳ 2000-2004, từ gần 14.100 doanh nghiệp lên gần 28.600 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp hoạt động bán buôn tăng gần 170% và bán lẻ tăng gần 50%.
Sự bùng nổ số lượng đó phản ánh mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực dịch vụ phân phối. Và trên thực tế thời gian qua đã xuất hiện nhiều hành vi phản cạnh tranh. Ví dụ như trong phân phối dược phẩm đã gây nhiều bức xúc trong dư luận.
Vì vậy trong bối cảnh hội nhập, vai trò và sự can thiệp của cơ quan quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng. Theo nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường, Nhà nước sẽ can thiệp vào thị trường khi các khiếm khuyết của thị trường xuất hiện. Vấn đề đặt ra ở đây là phải có các quy định pháp luật hợp lý trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, mà cụ thể là các quy định liên quan tới các cửa hàng bán lẻ quy mô lớn, các quy định liên quan tới các liên kết chiều dọc và các quy định khác.
Nhiều nước, kể cả các nước phát triển hiện đều có những quy định hạn chế thành lập các cửa hàng lớn dựa trên các nguyên nhân về đô thị hóa, ô nhiễm môi trường và đặc biệt là bảo vệ hệ thống các cửa hàng nhỏ. Tuy nhiên, hệ thống quy định như vậy đã làm hạn chế khả năng lựa chọn và sự tiện ích cho người tiêu dùng và không khai thác được hiệu quả kinh tế theo vi mô.
Mặt khác, nó tạo ra cho chính một số ít các cửa hàng lớn được thành lập không gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ. Hậu quả của cơ cấu thị trường kém cạnh tranh là giá bán sản phẩm cao hơn, khả năng lựa chọn giảm và phúc lợi của người tiêu dùng cũng bị giảm.
Các quy định liên quan tới liên kết dọc giữa người bán buôn và người bán lẻ và giữa người sản xuất và người phân phối được xem là vấn đề quan trọng nhất trong lĩnh vực dịch vụ phân phối vì các mối liên kết này có thể dễ dàng nhất phát sinh các hành vi phản cạnh tranh.
Các quy định pháp luật trong khía cạnh này nên có mục tiêu bảo đảm rằng các nhà sản xuất không áp đặt hạn chế lên các nhà phân phối và do vậy bảo đảm các quan hệ này không ngăn cản việc tham gia thị trường hoặc giảm môi trường cạnh tranh. Các hạn chế mà nhà sản xuất có thể áp đặt lên các nhà sản xuất như lựa chọn hạn chế một số nhà phân phối, giao dịch hạn chế, chỉ được bán trên một phạm vi nhất định và duy trì giá bán lẻ.
Tuy nhiên, các quy định này cũng chứa đựng những tiềm ẩn, tác động tiêu cực tới hiệu quả và thậm chí là tính cạnh tranh, ví dụ như hành vi lựa chọn hạn chế nhà phân phối một mặt hạn chế việc tham gia thị trường phân phối dịch vụ, nhưng có tác động tích cực là giúp nhà sản xuất kiểm soát được chất lượng mạng lưới cung ứng và việc kiểm soát tốt hệ thống cung ứng có thể tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng thông qua các dịch vụ trước và sau bán hàng.
Những phân tích trên cho thấy không thể phủ nhận vai trò và sự can thiệp của Nhà nước đối với các hành vi phản cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là bản thân sự can thiệp của Nhà nước nếu không hợp lý sẽ hạn chế tác động tích cực của chính sách và pháp luật cạnh tranh hoặc thậm chí là giảm sự cạnh tranh.
Vì vậy, cơ quan quản lý cạnh tranh cần được khẳng định về vị trí, tăng cường nguồn lực và năng lực hoạt động.
Xác định rõ ranh giới hành vi hạn chế cạnh tranh
Ông Võ Văn Quyền - Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thị trường trong nước (Bộ Thương mại)
Hiện nay trong dịch vụ phân phối, có thể nói thời điểm này đã manh nha 3 loại hành vi. Đó là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh độc quyền và các hành vi tập trung kinh tế bao gồm sáp nhập, mua lại và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Đối với loại hành vi thứ nhất, nó thường diễn ra ở 2 dạng liên kết: liên kết dọc giữa nhà sản xuất, nhập khẩu và nhà bán buôn, bán lẻ và liên kết ngang: nhà nhập khẩu với nhau, nhà bán buôn với nhau hoặc bán lẻ với nhau. Theo tôi, hành vi hạn chế cạnh tranh đã diễn ra ở liên kết dọc, còn liên kết ngang thì chưa do tính quy mô yếu và phân tán giữa các nhà phân phối.
Tuy nhiên, điều này có thể sẽ thay đổi khi các nhà phân phối nước ngoài được “mở cửa” hoàn toàn trong thời gian tới. Vấn đề là phải phân biệt được ranh giới trong việc các liên kết này có mang tính hạn chế cạnh tranh hay không. Đặc biệt là khả năng các nhà phân phối nước ngoài có tiềm lực mạnh khi tạo lập hệ thống thông qua các phương pháp như khuyến mại lớn, tín dụng, giảm giá... sẽ rất khó phân biệt.
Cũng tương tự, các hành vi tập trung, sáp nhập, mua lại hiện nay là không đáng kể, do quy mô các doanh nghiệp phân phối trong nước như hiện nay là không có nhiều doanh nghiệp nổi bật.
Cái đáng chú ý hiện nay là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi này đã, đang và diễn ra ngày càng nhiều. Trên thực tế đã có quá nhiều hành vi thương mại gièm pha sản phẩm của nhau, chỉ dẫn gây nhầm lẫn, hoặc như bán hàng đa cấp bất chính. Vì thế câu chuyện mà cả cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp dịch vụ phân phối cần phải tính ở đây là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Nếu có đặt vấn đề môi trường cạnh tranh, thì trước hết phải là hệ thống chính sách của Nhà nước. Tôi xin nhấn mạnh là các nước theo kinh tế thị trường đều áp dụng một chính sách khơi thông và sử dụng hiệu quả được mọi nguồn lực trong xã hội theo tín hiệu thị trường.
Trong dự thảo Đề án phát triển thương mại trong nước giai đoạn 2006-2010, định hướng đến 2020 đã xác định một trong những thách thức của thương mại Việt Nam là hạ tầng thương mại yếu, các doanh nghiệp thương mại quy mô nhỏ và thiếu tính chuyên nghiệp. Cho nên tìm một lộ trình phù hợp là điều cần thiết để phát triển hiệu quả thị trường dịch vụ phân phối.
Cơ hội và thách thức cho ngành phân phối bán lẻ
Ông Đào Đình Khương - Giám đốc kinh doanh Công ty Phú Thái
Năm 2005, sức mua hàng hóa và dịch vụ của thị trường Việt Nam tăng khá mạnh với bình quân chi tiêu đầu người lên đến 438.000 đồng/tháng, cao hơn nhiều so với mức 378.000 đồng/tháng của năm trước đó và gấp 2 lần so với năm 2000.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của cả nước trong năm 2005 đạt trên 475.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm trước và tăng khoảng 12% nếu loại trừ yếu tố tăng giá. Cơ cấu sử dụng sản phẩm theo ngành cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia định cũng chuyển biến theo hướng tích cực: tiêu dùng sản phẩm từ khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chỉ còn dưới 20%, từ khu vực công nghiệp - xây dựng đã tăng lên khoảng 53% và từ khu vực dịch vụ đã chiếm 27%.
Nhìn chung, Việt Nam hứa hẹn là thị trường bán lẻ hấp dẫn không thua kém bất kỳ thị trường nào ở châu Á, nơi có dân số đông nhất thế giới.
Tuy nhiên, tỷ lệ giữa kênh phân phối truyền thống và hiện đại ở Việt Nam hiện đang chênh lệch ở mức cao. Nếu như Thái Lan tỷ lệ này là 4:6 (kênh phân phối truyền thống 40%, hiện đại 60%) thì ở Việt Nam là 8,5:1,5. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn rất lớn nếu như nắm giữ được 85% thị phần vốn rất rời rạc và manh mún này.
Vậy các điểm yếu của hệ thống phân phối nằm ở đâu? Có thể thống kê tới 5 vấn đề. Thứ nhất là yếu tố tài chính, các doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn trầm trọng khi mà để xây dựng 1 siêu thị mức trung bình cần phải có 20-30 tỷ đồng trở lên, chưa nói đến các đại siêu thị, trung tâm bán sỷ, trung tâm kho vận mang tầm quốc tế.
Thứ 2, hiện Việt Nam rất thiếu các chuyên gia cao cấp để quản lý và điều hành những doanh nghiệp tầm cỡ. Thứ 3, thương mại hiện đại đòi hỏi 1 hệ thống hậu cần hiện đại và mang tính chuyên nghiệp cao mà Việt Nam cũng đang thiếu, từ “phần cứng” như hệ thống kho, các phương tiện vận chuyển chuyên dùng đến “phần mềm” là con người và phương pháp làm việc trong hệ thống.
Tiếp theo là việc thiếu tính chuyên nghiệp, không tạo được sự hài hòa trong phối hợp giữa thu mua và phân phối, trong vận chuyển, thực hiện các đơn hàng, lưu chuyển hàng hóa.
Một điểm yếu cần được nhấn mạnh ở các doanh nghiệp dịch vụ phân phối trong nước là họ thiếu sự liên kết trong cùng lĩnh vực và bán lẻ để tạo ra các chuỗi cung ứng. Từ điểm yếu này, có thể thấy một tương lại không xa việc doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam bị chi phối và mất dần thị phần về tay các nhà bán lẻ nước ngoài là điều khó tránh khỏi, buộc những nhà bán lẻ ở thế yếu phải tính toán lại phương án liên kết, nhượng quyền kinh doanh hoặc thuê chuyên gia nước ngoài điều hành hoạt động kinh doanh.
Nguyên Quân thực hiện
Nguồn: vneconomy.com.vn, ngày 13/10/2006
