Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Ngân hàng quốc doanh - kém sức cạnh tranh do cơ chế (16/10)

06/08/2010 - 252 Lượt xem

Ngân hàng là "trung tâm của thị trường tài chính",  "nơi điều tiết sự chu chuyển của các dòng vốn", là "bà đỡ của các DN", là "tấm gương phản chiếu sức sống của nền kinh tế"... đó là những cách đánh giá khác nhau về vai trò của hệ thống ngân hàng. Với nền kinh tế đang chuyển đổi, hệ thống ngân hàng phải đi trước một bước làm động lực cho công cuộc cải cách theo xu thế hội nhập. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng chưa thể hiện được vai trò tiên phong của mình. Một chuyên gia kinh tế nước ngoài ví von: “Hệ thống ngân hàng Việt Nam là tấm gương nhưng chưa sáng.”

Những cây cổ thụ không chịu lớn

Sau công cuộc đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng được phân thành hai cấp: Ngân hàng thương mại và NH nhà nước. Năm 1990, Chính phủ cho phép thành lập 4 ngân hàng thương mại quốc doanh là: Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng Nông nghiệp (Agribank), Ngân hàng công thương (Incombank), và Ngân hàng Đầu tư (BIDV),  với xuất phát điểm là sự phủ kín thị trường tín dụng trong cả nước. Sau đó ít lâu, có khoảng hơn 40 ngân hàng thương mại cổ phần ra đời và từng bước len vào những khoảng trống nhỏ lẻ mà hệ thống ngân hàng quốc doanh không phủ sóng.

Phần lớn các ngân hàng thương mại cổ phần đều có vốn rất nhỏ, thiếu kinh nghiệm, chưa tạo được uy tín nên thời gian đầu hoạt động không mấy hiệu quả. Nhờ sự bảo trợ của nhà nước nên bốn ngân hàng quốc doanh vẫn là lực lượng chủ yếu cung cấp dịch vụ tín dụng, cho đến nay, vẫn chiếm tới hơn 70% thị phần. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa, một chuyên gia của WB nhận xét: Ngân hàng quốc doanh như những cây cổ thụ cớm bóng, khiến những ngân hàng cổ phần phát triển một cách khó khăn.

Điều đáng nói ở đây là, mặc dù được đánh giá là những doanh nghiệp đặc biệt, là lực lượng chủ đạo trên thị trường tiền tệ nhưng vốn tự có của các NH quốc doanh tăng trưởng chậm, chủ yếu bằng con đường bổ sung từ vốn của ngân sách. So với các doanh nghiệp trong nước, các ngân hàng quốc doanh có thể tự hài lòng với quy mô của mình nhưng so với khu vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tiền tệ, số vốn của các NH Việt Nam còn quá nhỏ bé. Tổng vốn điều lệ của 4 ngân hàng thương mại nhà nước hiện mới đạt xấp xỉ 25.000 tỷ đồng.

Lớn nhất là Agribank với số vốn là 9.631 tỷ đồng (600 tr USD) và nhỏ nhất là Vietcombank với số vốn điều lệ là 4.700 tỷ (xấp xỉ 300 tr USD), chỉ bằng một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Tổng dư nợ tín dụng mới đạt xấp xỉ 55% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trên 80% của các nước trong khu vực.

Chất lượng dịch vụ chậm đổi mới

Một điểm yếu khác của hệ thống ngân hàng Việt Nam là chất lượng hoạt động. Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngoài là dịch vụ thì ngân hàng trong nước vẫn chủ yếu là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng vẫn còn thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ.

Sự đơn điệu trong hoạt động dịch vụ khiến hệ thống ngân hàng quốc doanh không tận dụng được lợi thế về mạng lưới, về khách hàng, về kênh phân phối và công nghệ. Cũng chính vì sự đơn điệu nên giá thành dịch vụ của các NH quốc doanh khá cao so với các nước khu vực.Nếu như ở các nước phát triển, ngân hàng thương mại thường là những tổ hợp Ngân hàng - tài chính kinh doanh đa ngành nghề (tín dụng, thanh toán, bảo hiểm, chứng khoán...) thì các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn xoay quanh các sản phẩm truyền thống như: tín dụng, bảo lãnh thanh toán. Một số dịch vụ mới ra đời nhưng vẫn ở mức nhỏ bé, chiếm tỷ trọng thấp trong tổng doanh thu.

Một chuyên gia của WB cảnh báo: Nếu dịch vụ NH không được cải tiến mạnh mẽ, hệ thống phân phối của NH trong nước sẽ mất dần, nhất là khi sự phân biệt giữa tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài căn bản được xóa vào năm 2010. Mặt khác với điều kiện hạ tầng kỹ thuật như hiện nay, sẽ rất khó có các NH nội địa cạnh tranh được với NH nước ngoài về mặt công nghệ. Một cuộc thăm dò ý kiến khách hàng gần đây cho biết: 45% số khách hàng được hỏi, kể cả cá nhân và DN trả lời sẽ chuyển sang vay vốn NH nước ngoài chứ không vay vốn của NH Việt Nam. Nguyên nhân ngoài lý do chênh lệch lãi suất thì cơ bản là do chất lượng dịch vụ và thủ tục hành chính quá rườm rà phức tạp.

Hội nhập với cơ chế quản trị điều hành cũ?

Giải thích về sự trì trệ này, TS Nguyễn Thạc Hoát, Quyền chủ tịch HĐQT Incombank cho rằng, sự bất cập của cơ chế là nguyên nhân chính để các ngân hàng quốc doanh khó lớn mạnh. Muốn tăng vốn có thể thực hiện bằng hai cách: thứ nhất là dùng vốn ngân sách bổ sung thứ hai là phát hành trái phiếu tăng vốn. Cách thứ nhất là không khả thi, xét về thực lực ngân sách lẫn xu thế phát triển. Cách thứ hai được coi là “thị trường” hơn và khả thi. Qua thí điểm ở Vietcombank cho thấy, việc phát hành trái phiếu để tăng vốn điều lệ là không khó, chỉ trong 1 ngày đã có thể huy động được 1 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, thủ tục để phát hành trái phiếu không đơn giản và phải chờ ý kiến chỉ đạo của Chính phủ. Thêm nữa, hiện tại nhà nước vẫn còn do dự trong việc đa sở hữu các NH quốc doanh.

Trong môi trường cạnh tranh, đòi hỏi phải có những phản ứng nhanh nhưng cơ chế của doanh nghiệp nhà nước còn quá nhiều thứ bất cập. Cơ chế tuyển dụng cán bộ, quản lý tài chính, đầu tư thiết bị... vẫn tồn tại từ hàng chục năm nay với quá nhiều thủ tục và cửa ải, không thể cạnh tranh được với ngoài quốc doanh.

Đơn cử, quy trình bổ nhiệm, đề bạt, miễn nhiệm cán bộ hiện còn phải qua quá nhiều vòng vẫn chưa có gì thay đổi. Theo đó, muốn bầu 1 Tổng giám đốc, ứng viên đó phải thuộc diện quy hoạch, sau đó lấy ý kiến của các chi nhánh, đơn vị trực thuộc, thông qua cấp ủy, HĐQT, NHNN, Ban Nội chính, Ban Tổ chức Chính phủ... với gần 10 vòng. Nhưng đâu là người chịu trách nhiệm cuối cùng về chất lượng cán bộ thì không quy định rõ. Trong khi đó, với một ngân hàng cổ phần, chỉ cần đăng thông báo tuyển dụng, sàng lọc hồ sơ và HĐQT phỏng vấn trực tiếp là có thể tìm kiếm được 1 giám đốc.

Mức lương, chính sách đãi ngộ cán bộ cũng là một vấn đề. Ông Vũ Viết Ngoạn, Tổng giám đốc Vietcombank cho biết, trong những năm qua, Viecombank liên tục có lãi, năm 2005, lãi ròng hơn 1.000 tỷ, tài chính lành mạnh nhưng việc đãi ngộ nhân viên lại phải do nhà nước quy định. Nếu như ở NH cổ phần, lương tổng giám đốc không dưới 5 ngàn USD thì ở NH quốc doanh, chỉ được xấp xỉ 10 triệu đồng. Cũng chính vì sự thiếu năng động trong chính sách đãi ngộ, nên NH quốc doanh luôn đối mặt với nguy cơ chảy máu chất xám. Một số ít tâm huyết với nghề, nín thở chờ đợi thời điểm biến thành NH cổ phần. Một số khác, không đủ kiên nhẫn đã chia tay. Mỗi năm Vietcombank đã mất vài ba chục cán bộ giỏi, riêng năm ngoái mất hơn 50 người cũng chỉ vì lý do thu nhập.

TS Nguyễn Văn Nam, cựu thành viên Ban nghiên cứu Thủ tướng cho rằng, thói quen làm việc dưới các chính sách ưu đãi của Nhà nước, vì sự bất tài, hay thói quen dựa vào sự lỏng lẻo của cơ chế quản lý nhà nước để dễ kiếm chác, trục lợi lại thích được tiếp tục duy trì là doanh nghiệp quốc doanh, vừa ổn định, không mất ghế mà vẫn kiếm được. Còn khi chuyển sang cơ chế cổ phần, năng lực công tác là một sự cạnh tranh thực sự, và cơ chế tài chính cũng được giám sát chặt chẽ hơn bởi các cổ đông. Đó cũng chính là lý do để hệ thống ngân hàng quốc doanh chậm chuyển đổi. Việc gia nhập WTO đang đến gần, nhưng mới chỉ có Vietcombank đang xúc tiến việc cổ phần hóa. Chủ trương này đã được nói đến cách đây ba năm nhưng đến nay vẫn nằm trên giấy.

Ông Hoát cho rằng, bên cạnh những bất cập, hệ thống ngân hàng quốc doanh cũng đã có những sự tăng trưởng đáng kích lệ. Đó là sự tái cơ cấu tài chính, giải quyết thành công nợ quá hạn. Đến thời điểm này, nợ xấu dưới 5%; Tốc độ tăng trưởng tài sản đạt từ 18- 20% năm. Tỷ lệ lãi ròng/vốn tự có (ROE) đạt bình quân trên 20%/năm. Đây đã là tỷ lệ khá tốt so với các nước trong khu vực.

Hải Lan

Nguồn: http://www.vietnammet.vn, ngày 16/10/2006