
Tin tức
Hiệp định hợp tác kinh tế với Nhật: Cơ hội nào cho doanh nghiệp Việt? (25/10)
06/08/2010 - 314 Lượt xem
Cả chính phủ Việt Nam và Nhật đều đánh giá cao về sự thành công của chuyến thăm và làm việc của người đứng đầu chính phủ Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cho biết một trong những nội dung hành động mà cả hai bên sẽ phải thực hiện sau cuộc gặp chính là xúc tiến đàm phán và xây dựng hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản.
Hiệp định kinh tế là cầu nối đầu tư thương mại
Quan hệ Việt Nam và Nhật Bản được thiết lập hàng chục năm nay nhưng phát triển mạnh nhất là hoạt động thương mại và đầu tư từ sau năm 2000. Việt Nam và Nhật đã ký kết nhiều hiệp định trong số này có Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư hồi năm 2004 là căn cứ để phát triển quan hệ đầu tư của Nhật vào Việt Nam.
Không phải đợi đến khi hiệp định liên quan đến đầu tư được ký kết mà trước đó, hoạt động đầu tư của Nhật luôn nằm trong top ten các dự án FDI (dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) tại Việt Nam, trở thành nhà đầu tư được ưu ái nhất trong số các nhà đầu tư được trải thảm đỏ ở Việt Nam.
Sự ưu ái đó không chỉ đơn thuần do đầu tư của Nhật lớn (tính đến hết 12/2005 có 600 dự án FDI của Nhật với tổng vốn gần 6,3 tỷ USD) mà còn do thị trường xuất khẩu Nhật Bản rất hấp dẫn (tổng kim ngạch xuất khẩu trên 4,4 tỷ USD năm 2005) và nguồn vốn ODA dồi dào mà Chính phủ Nhật dành cho Việt Nam (tính đến 2005 trên 10,44 tỷ USD).
Hiệp định kinh tế mà hai nước lên kế hoạch xúc tiến vào đầu năm tới sẽ là cầu nối để bắt nhịp và thúc đẩy những gì hai nước đã và đang làm. Hiệp định kinh tế mà Việt Nam và Nhật sẽ đàm phán và ký kết sẽ không giống bất kỳ hiệp định nào Việt Nam đã ký với các nước từ trước đến nay.
“Hiệp định kinh tế là hình thức hợp tác mới giữa hai quốc gia, không phải là hiệp định tự do thương mại FTA mà nó bao gồm nhiều lĩnh vực hợp tác trong đó có cả lĩnh vực thương mại”, Tiến sĩ Lưu Ngọc Trịnh, Phó viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới (IWEP), nói.
Theo Tiến sĩ Trịnh, hiệp định kinh tế giống như hiệp định trọn gói hay hiệp định toàn diện (CEPA) trong đó còn có cả đầu tư, vốn vay ODA, du lịch, khoa học kỹ thuật, công nghệ... Nhà nghiên cứu Nhật Bản này còn cho biết thêm CEPA (Closer Economic Partnership Agreement) là loại hiệp định mà Nhật rất “ưa chuộng” khi muốn đẩy mạnh hợp tác với quốc gia khác.
Đối với Việt Nam, CEPA sẽ là hiệp định đầu tiên nhưng đối với Nhật, Việt Nam là đối tác tiếp theo trong khu vực châu Á có quan hệ CEPA với Nhật, nhằm đưa tổng kim ngạch thương mại hai chiều của hai nước từ 8,5 tỷ USD năm 2005 lên 15 tỷ USD vào năm 2010. Tiến sĩ Trịnh cho biết Nhật Bản đã ký CEPA với Thái Lan, Malaysia, Philippines...
Mở rộng đường cho làn sóng đầu tư mới
CEPA được xem là hiệp định cấp cao so với FTA vì bao hàm nhiều vấn đề và cũng là xu hướng lựa chọn của các nước khi muốn đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nhau. Việt Nam đang xúc tiến hiệp định FTA đa phương với các nước trong khu vực ASEAN cũng như của khu vực với các đối tác châu Á như Trung Quốc, ấn Độ, Nhật Bản...
Đối với Mỹ, Việt Nam đã ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) hồi cuối 2001. Đây là hiệp định song phương duy nhất của Việt Nam với nước ngoài. BTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã tạo ra cơ hội xuất khẩu rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỹ, với kim ngạch tăng gấp bốn năm lần so với trước khi có BTA.
Vậy CEPA sẽ tạo ra cơ hội gì cho doanh nghiệp Việt Nam cũng như nền kinh tế Việt Nam?
Khác với BTA hay FTA chỉ thuần túy về thương mại, hiệp định toàn diện CEPA sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền về thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, ODA, du lịch... đồng thời cho nền kinh tế Việt Nam. Theo Tiến sĩ Trịnh, tùy theo mức độ đàm phán mà hiệp định CEPA hai nước dành cho nhau sẽ được xác lập theo hướng mở rộng hơn nhằm thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Hàng hóa, vốn đầu tư, công nghệ... giữa hai nước sẽ luân chuyển nhiều hơn và thuận lợi hơn nhờ CEPA.
Tuy nhiên theo phân tích của Tiến sĩ Trịnh, sẽ có một số hoạt động sẽ tốt hơn trong khi những hoạt động khác có thể sẽ không được như mong muốn. Về mặt đầu tư, với CEPA, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút nhiều hơn nguồn vốn FDI vừ Nhật. Theo đánh giá của các nhà đầu tư Nhật Bản, Việt Nam là lựa chọn ở vị trí thứ tư hoặc thứ năm ở khu vực châu Á. Cùng với đó, hàng hóa từ Nhật sẽ vào Việt Nam nhiều hơn đặc biệt là hàng hóa công nghiệp như ôtô, điện tử... Khách du lịch và chuyển giao công nghệ sẽ vào Việt Nam nhiều hơn so với hiện nay.
Ngược lại, hàng hóa của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn để đến với người tiêu dùng Nhật Bản. Tuy nhiên, Nhật vốn là một trong những thị trường khó tính. Những mặt hàng Việt Nam có thể xuất khẩu vào thị trường này là hàng thủ công mỹ nghệ, thủy sản, giày dép... và cả lao động với số lượng hạn chế và yêu cầu rất cao.
Thủy sản và lao động là hai mặt hàng Việt Nam muốn đẩy mạnh vào Nhật. Tuy nhiên, vệ sinh thực phẩm đối với thủy sản bị yêu cầu khá nghiêm ngặt ở Nhật Bản và lao động đòi hỏi trình độ rất cao ở đây; những lao động giản đơn luôn bị từ chối hoặc trình độ thấp thường không có cơ hội vào Nhật.
Ngoài thu hút FDI, công nghệ từ Nhật, Việt Nam cũng muốn cơ hội xuất khẩu hàng hóa và lao động sang Nhật. Tuy nhiên, theo tiến sĩ Trịnh cơ hội này khó có thể cải thiện nhiều hơn so với hiện nay khi hai nước ký kết CEPA.
Trong chuyến đi của mình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chứng kiến nhiều cuộc ký kết hợp tác đầu tư giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản thuộc những lĩnh vực như hạ tầng, công nghệ cao... mà đó cũng là những lĩnh vực Việt Nam khuyến khích nước ngoài đầu tư. Những văn kiện hợp tác đầu tư này mở đường cho làn sóng đầu tư thứ hai của Nhật vào Việt Nam như nhiều chuyên gia dự đoán.
Sự tham gia của các nhà đầu tư Nhật là cơ hội tốt để tạo ra sản phẩm và công ăn việc làm cho người lao động, nhưng cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam có cùng ngành nghề cạnh tranh mà doanh nghiệp Nhật đầu tư.
Minh Quang
Nguồn: vneconomy.com.vn, ngày 25/10/2006
