
Tin tức
Ngân hàng trong nước trước thềm WTO (2/11)
06/08/2010 - 264 Lượt xem
Theo cam kết giữa Việt Nam và các nước thành viên, từ nay đến năm 2010, các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân hàng như một ngân hàng trong nước (trừ dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin ngân hàng).
Cụ thể, kể từ ngày 1/4/2007, các ngân hàng nước ngoài được phép thiết lập sự hiện diện thương mại của mình tại Việt Nam dưới các hình thức như: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại liên doanh với nước ngoài có vốn nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ, các công ty cho thuê tài chính liên doanh, các công ty tài chính cho thuê 100% vốn nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài...
Cũng như các pháp nhân Việt Nam, các chi nhánh, văn phòng đại diện, và ngân hàng nước ngoài này sẽ được hưởng quy chế đối xử không phân biệt ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Lực chúng ta chưa đủ mạnh...
Theo các chuyên gia hoạt động trong ngành ngân hàng cho biết: hiện nay (tính đến tháng 6/2006) hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 1 ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng phát triển (mới thành lập ngày 19/5/2006), 37 ngân hàng thương mại cổ phần...
Những ngân hàng thương mại trong nước hiện đang nắm giữ khoảng gần 90% thị phần (cả tiền gửi và cho vay), trong đó riêng các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 70%. Phần các ngân hàng nước ngoài (hiện có 4 ngân hàng liên doanh, 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 43 văn phòng đại diện) chỉ chiếm khoảng dưới 10% thị phần.
"Đây không phải là lợi thế của chúng ta-các ngân hàng trong nước- trước tiến trình hội nhập và mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài vào hoạt động; mà chỉ là kết quả tất yếu của sự bảo hộ trong suốt thời gian qua đối với các ngân hàng thương mại trong nước, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước so với các ngân hàng nước ngoài về đối tượng khách hàng, số lượng và loại hình tiền tệ được phép huy động và mạng lưới hoạt động", Th.S Trần Thanh Huyền, Viện Khoa học tài chính (Bộ Tài chính) nói, và dẫn chứng bằng những số liệu khá cụ thể.
Ví như cho đến nay, chỉ riêng các ngân hàng thương mại nhà nước đã có 309 chi nhánh cấp 1; các ngân hàng thương mại cổ phần cũng hiện diện ở hầu hết các trung tâm lớn của cả nước, với bình quân mỗi ngân hàng có 20-30 chi nhánh...
Một thực tế cũng được ghi nhận là các dịch vụ ngân hàng trong nước còn rất đơn điệu, chất lượng chưa cao, còn nặng về các dịch vụ ngân hàng truyền thống mà chưa có định hướng theo nhu cầu của khách hàng. Huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi (chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động), và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu (chiếm trên 80% tổng thu nhập)...
Quan trọng nữa là tiềm lực tài chính, vẫn theo Th.S Huyền công bố: tổng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nhà nước tính đến đầu năm 2005 chỉ có khoảng 21.000 tỷ đồng, dư nợ tín dụng đạt xấp xỉ 55% GDP (so với các nước trong khu vực là khoảng 80%).
Bình quân vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước chỉ 200-250 triệu USD, bằng vốn của một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Chỉ có một số ít ngân hàng thương mại có vốn trên 1.000 tỷ đồng. Ngoài ra, phần lớn các ngân hàng thương mại còn có mức nợ xấu cao; khả năng thanh toán bình quân của các tổ chức tín dụng mới xấp xỉ 60%.
Tỷ lệ sinh lời bình quân trên vốn tự có của các tổ chức tín dụng hiện đạt 6% (trong khi ở các nước trong khu vực đạt 13-15%).
Vẫn cần các giải pháp từ phía Chính phủ
Đã có những động thái cho thấy nhiều ngân hàng nước ngoài có tiềm lực mạnh mẽ đã và đang nhanh chóng chuẩn bị vào Việt Nam, như mới đây Ngân hàng Mizuho (Nhật Bản) đã chính thức khai trương chi nhánh thứ hai của mình tại Tp.HCM (sau chi nhánh Hà Nội đã có từ 10 năm trước).
Các ngân hàng nước ngoài khác khi vào Việt Nam cũng như Mizuho là nhắm đến thị trường tại chỗ, và đều tin chắc vào sự thành công của mình. Đâu là cơ sở của niềm tin này?
Kết qủa một cuộc điều tra của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc được thực hiện vào cuối năm 2005 cho biết: có 45% khách hàng (là doanh nghiệp và cá nhân) sẽ chuyển sang vay vốn của ngân hàng nước ngoài thay vì của ngân hàng trong nước; 50% chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài thay thế, và 50% còn lại chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại tệ...
Như vậy, các ngân hàng trong nước có thể sẽ mất đi khoảng một nửa các hoạt động kinh doanh hiện nay; và khả năng huy động vốn cũng bị giảm sút?
Cùng với các nỗ lực tự thân của các ngân hàng thương mại trong nước, các giải pháp từ phía Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước là rất cần thiết cho các ngân hàng trong nước có thể hòa vào tiến trình tự do hóa dịch vụ ngân hàng. Th.S Trịnh Thanh Huyền đề xuất:
Một là, nâng cao hiệu lực pháp lý và đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về thị trường ngân hàng nhằm tạo ra hành lang pháp lý phù hợp cho các ngân hàng hoạt động. Tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực sự kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, tách bạch kinh doanh và chính sách. Sắp xếp, sáp nhập, giải thể một số ngân hàng thương mại không đủ điều kiện. Bãi bỏ một số hạn chế đang cản trở các ngân hàng thương mại mở rộng các hoạt động dịch vụ mới...
Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ ngân hàng.
Ba là, nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát. Nghiêm cấm cạnh tranh bất hợp pháp, gây mất ổn định thị trường. Giám sát hoạt động của các ngân hàng trong việc cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên cung cấp và sử dụng dịch vụ. Từng bước nghiên cứu và thành lập cơ quan giám sát tài chính thống nhất, trực thuộc Chính phủ, độc lập với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, thực hiện chức năng giám sát toàn bộ các hoạt động của các tổ chức tài chính.
Bốn là, chủ động nới lỏng các quy chế về sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài trên cơ sở đảm bảo kiểm soát hiệu qủa. Cần tính toán số lượng các chủ thể nước ngoài. Việc cấp phép cần phải căn cứ vào nhu cầu và khả năng cung cấp của thị trường, số lượng các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước tại thời điểm đó trên thị trường.
Thạch Phùng
Nguồn: vneconomy.com.vn, ngày 3/11/2006
