Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Định giá và ứng dụng tài sản trí tuệ thế nào? (20/11)

06/08/2010 - 380 Lượt xem

Tài sản vô hình này đóng góp phần lớn vào sự thành công của một doanh nghiệp nếu đơn vị kinh doanh biết quản lý và sử dụng chúng hiệu quả và khoa học. Mặc dù là tài sản vô hình nhưng giá trị của những loại tài sản này rất “hữu hình”.

Chúng là tài sản doanh nghiệp có thể khai thác lâu dài để tạo ra những giá trị gia tăng theo thời gian. Tuy nhiên để có được sự thành công từ việc khai thác tài sản trí tuệ, doanh nghiệp phải nhận thức được những tài sản vô hình mà mình đang sở hữu, phát triển nó lên thành “của để dành” theo một kế hoạch dài hạn.

Mỗi doanh nghiệp đều có cách định giá và khai thác tài sản trí tuệ. Chưa có phương pháp định giá tài sản trí tuệ nào được các doanh nghiệp hay chuyên gia cho rằng tối ưu nhưng chúng đều được áp dụng ở mỗi doanh nghiệp theo cách tiếp cận khác nhau nhưng mọi người tin rằng tài sản trí tuệ sẽ có giá hơn chúng đang có hiện nay đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.

Chúng tôi ghi nhận ý kiến của các chuyên gia và doanh nghiệp về việc định giá và sử dụng tài sản trí tuệ.

Nâng cao vai trò giá trị sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp
Ông Lê Phụng Hào, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Kinh Đô

Những yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu bao gồm 3 phần chính. Thứ nhất, phần cơ bản của thương hiệu là sản phẩm. Đây là phần cốt lõi của thương hiệu bao gồm phạm vi sử dụng, thuộc tính sản phẩm, chất lượng sản phẩm và tính hữu dụng của sản phẩm.

Thứ hai, phần kế tiếp là hệ thống nhận diện, bao gồm tính cách, biểu tượng, cảm nhận về các mối quan hệ, cảm xúc, lợi ích, hình tượng quốc gia... các yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu: độ trung thành, độ nhận biết, chất lượng cảm nhận của thương hiệu.

Để nâng cao giá trị tài sản thương hiêụ trong kinh doanh, doanh nghiệp cần thiết lập một chiến lược về phát triển quyền sở hữu trí tuệ phục vụ chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nên chọn con đường cạnh tranh bằng khác biệt hóa. Đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường. Thiết lập hệ thống theo dõi đo lường mức độ trung thành và mức độ nhận biết nhãn hiệu để có chính sách nuôi dưỡng thích hợp.

Thiết lập một chính sách bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ như: đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, bảo hộ kiểu dáng, quyền tác giả... đăng ký phong tỏa các trường hợp có thể làm xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp.

Để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tạo dựng, duy trì và phát triển giá trị tài sản trí tuệ, trong đó có tài sản thương hiệu, Chính phủ cần thực hiện một số biện pháp sau. Nhanh chóng đưa Luật sở hữu trí tuệ đi vào thực tế đời sống kinh doanh thông qua các biện pháp tuyên truyền, đồng thời áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với hành vi xâm phạm, gian lận quyền sở hữu trí tuệ.

Cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào tài sản vô hình, trong đó đặc biệt khuyến khích đầu tư vào tài sản thương hiệu, phá bỏ các khống chế định mức chi phí quảng cáo, tiếp thị quảng bá thương hiệu. Ban hành các chuẩn mực để định giá, thẩm định tài sản trí tuệ một cách có cơ sở và đáng tin cậy, trong đó đặc biệt là tài sản thương hiệu, từ đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp góp vốn, hợp tác kinh doanh, chuyển nhượng các tài sản trí tuệ một cách thuận lợi như các loại tài sản khác.

Sửa đổi và bổ sung chuẩn mực kế toán Việt Nam nhằm qui định hướng dẫn cụ thể về các loại tài sản cố định vô hình là thương hiệu cũng phải được xem là tài sản vì quyết định của Bộ Tài chính không xem tài sản vô hình là tài sản. Sửa đổi và bổ sung qui định hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao cố định với tài sản cố định vô hình là thương hiệu để có cơ sở hoạch toán chi phí.

Ngoài ra, thiết nghĩ thương hiệu mạnh không chỉ là tài sản của doanh nghiệp mà còn là tài sản quốc gia. Do đó Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp đầu tư trở thành thương hiệu mũi nhọn của quốc gia, có uy tín và ảnh hưởng trên thị trường thế giới, làm đầu tàu để doanh nghiệp khác noi theo.

Quan hệ thương hiệu và nhãn hiệu
Đào Minh Đức, Trưởng phòng sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ Tp.HCM

Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, nhãn hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một mẫu thiết kế, một biểu tượng hoặc một tính chất nào khác giúp nhận biết hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nhân để phân biệt với hàng hóa, dịch vụ tương ứng của các doanh nhân khác. Thuật ngữ pháp lý tương ứng với brand và trademark. Một nhãn hiệu có thể dùng để phân biệt một sản phẩm, một họ sản phẩm hoặc toàn bộ sản phẩm của doanh nhân. Nếu dùng theo toàn bộ doanh nghiệp nói chung, thuật ngữ tương ứng là thương hiệu (trade name).

Tại Việt Nam, thương hiệu được sử dụng nhiều trong truyền thông với hàm ý rất rộng và không thống nhất, có thể bao hàm cả tên doanh nghiệp, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, nhãn hàng hóa...

Thương hiệu (corporate brand, trade name hay house mark) và lô gô (biểu tượng kinh doanh, nếu được doanh nghiệp sử dụng để bổ sung cho thương hiệu) là các dấu hiệu được doanh nghiệp sử dụng trong quan hệ giao tiếp với hàng loạt các đối tác khác nhau: nhà cung cấp nguyên vật liệu, nhà phân phối sỉ và lẻ, cổ đông và giới đầu tư, giới báo chí, chính quyền... kể cả các đối thủ cạnh tranh và các nhân viên của doanh nghiệp.

Phong cách kinh doanh của một doanh nghiệp là tổng hòa các phương thức mà doanh nghiệp thể hiện mình trong môi trường kinh doanh, từ đó hình thành nên hình ảnh về doanh nghiệp trong con mắt của các đối tượng giao tiếp khác nhau. Các hình ảnh từ các gốc nhìn khác nhau này nếu hội tụ tốt sẽ tạo ra được uy tín, danh tiếng kết tụ vào thương hiệu, thể hiện qua bốn giá trị mục tiêu.

(1) đó là một nguồn cung ứng hàng hóa, dịch vụ có chất lượng trong mắt khách hàng;

(2) đó là một môi trường làm việc lý tưởng trong mắt người lao động;

(3) đó là một địa điểm đầu tư/giao dịch đáng tin cậy trong mắt giới tài chính, cổ đông, nhà cung cấp, nhà phân phối...;

(4) đó là một công dân/pháp nhân tốt, gương mẫu trong mắt cộng đồng, đưa vào các ứng xử liên quan đến bảo vệ môi trường, tài trợ, bảo trợ xã hội...

Theo phương pháp hiện đại
Ông Ung Sơn Khôi, Trưởng phòng Kế hoạch Công ty TNHH cơ khí Kèm Nghĩa

Tài sản thương hiệu là yếu tố làm gia tăng sự khác biệt cho doanh nghiệp. Một khảo sát cho thấy 90% người tiêu dùng quyết định mua hàng hay dịch vụ chính là thương hiệu. Trong lĩnh vực tài chính cũng vậy, thương hiệu có tầm quan trọng rất lớn trong việc tạo ra giá trị (nhiều trường hợp đóng góp 70% giá trị) và tính thanh khoản của cổ phiếu.

Định giá thương hiệu có nhiều phương pháp. Hai phương pháp được thực hiện thông thường là ước lượng tài sản thương hiệu dựa vào nghiên cứu marketing và sử dụng các phương pháp tài chính.

Tại Việt Nam việc định giá tài sản vô hình trong đó giá trị thương hiệu được định giá dựa trên ba phương pháp: so sánh trực tiếp, tính theo chi phí và theo dòng lợi tức. Trong thông tư của Bộ Tài chính, việc xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần dựa trên những yếu tố như vị trí địa lý, thương hiệu... được dựa trên tỷ suất lợi nhuận, giá trị vốn của Nhà nước trên sổ sách và lãi suất của trái phiếu Chính phủ là không hợp lý vì việc xác định giá trị thương hiệu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc điểm của sản phẩm, dịch vụ là rất quan trọng trong việc xác định phương pháp định giá thích hợp.

Ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn... là những ngành mà yếu tố thương hiệu phụ thuộc vào uy tín, sự cam kết và lòng tin của khách hàng, vì vậy không thể xác định giá trị thương hiệu theo phương pháp của thông tư Bộ Tài chính hướng dẫn được.

Theo tôi, giá trị tài sản vô hình còn bao hàm cả năng lực nhân sự, hệ thống quản lý và thành quả bên trong, và giá trị bên ngoài.

Thương hiệu là cốt lõi của những giá trị, niềm tin và sự trãi nghiệm trong lòng khách hàng, điều cốt lõi là chúng ta phải làm như thế nào để xây dựng, phát triển, sử dụng thương hiệu một cách hiệu quả và khôn ngoan nhất. Trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã chú trọng xây dựng thương hiệu và có sự đầu tư thích đáng. Tuy nhiên việc xây dựng và bảo vệ còn thiếu chuyên nghiệp.

Ba phương pháp định giá tài sản trí tuệ
Ông Nguyễn Trọng, Phó giám đốc Sở Khoa học Công nghệ Tp.HCM

Ngay từ đầu thế kỷ 20 lý thuyết kinh tế đương thời đã tiếp cận khái niệm tài sản vô hình (intangible assets) bằng cách nhận diện giá trị vô hình của một tài sản kinh doanh không trông thấy, không tồn tại dưới dạng vật chất mà chỉ có thể cảm nhận được bằng lý trí, để đặt nền tảng cho khái niệm tài sản vô hình ra đời.

Ngày nay, tài sản vô hình đã có đã hiện hữu trong kế toán thương mại. Tại những quốc gia mà hiến pháp gắn kết quan hệ thương mại với nền kinh tế thị trường, giá trị tài sản vô hình được pháp chế hóa một cách minh bạch trong Luật thương mại. Giá trị vô hình của các doanh nghiệp là một đại lượng có thật, có thể tính toán được và trong nhiều trường hợp nó có giá trị rất lớn, thậm chí lớn hơn rất nhiều giá trị hữu hình của doanh nghiệp.

Nhiều quốc gia đã tập trung nỗ lực đầu tư cho loại tài sản mới này. Theo số liệu của Chính phủ Hà Lan, năm 1992, các tài sản vô hình chiếm đến 35% tổng vốn đầu tư của Nhà nước cũng như của tư nhân. Ở Thụy Điển tỷ lệ đó là 20%. Cũng trong năm 1992, tại Mỹ vốn đầu tư cho các tài sản vô hình đã vượt vốn đầu tư cho các tài sản hữu hình. Một cuộc khảo sát được tiến hành năm 2003 lấy mẫu từ 284 doanh nghiệp của Nhật Bản đã cho thấy các tài sản trí tuệ chiếm tới 45,2% giá trị của doanh nghiệp.

Các loại tài sản vô hình bao gồm các sáng chế, phát minh, công thức, qui trình, mô hình, kỹ năng, bản quyền các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật; thương hiệu, tên thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa; quyền kinh doanh, giấy phép, hợp đồng; phương pháp, chương trình, thủ tục, các báo cáo khảo sát-nghiên cứu-dự báo, danh sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật; các loại tài sản vô hình khác như đội ngũ nhân lực, vị trí kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp, bí mật thương mại...

Tài sản vô hình thường được phân làm hai nhóm: nhóm có giá thành được thể hiện trong sổ sách kế toán và nhóm không thể hiện trong sổ sách kế toán mà chỉ thể hiện trong các giao dịch liên quan như mua bán, nhượng quyền, góp vốn...

Định giá tài sản vô hình có ba phương pháp: phương pháp giá thành, phương pháp thị trường và phương pháp thu nhập. Phương pháp giá thành hay còn gọi là phương pháp giá trị tài sản thuần thực chất là căn cứ trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên ở Việt Nam và cả nước ngoài thì các tài sản vô hình chưa thể hiện đầy đủ hoặc không thể hiện trên bảng cân đối tài sản.

Do vậy cần định giá riêng từng tài sản vô hình rồi cộng lại. Một yêu cầu không dễ giải quyết hiện nay ở nước ta. Nên xem xét ba loại tài sản vô hình quan trọng nhất tương ứng với loại hình kinh doanh - sản xuất. Đó là thương hiệu và uy tín, gắn với các doanh nghiệp kinh doanh - sản xuất dân dụng; nguồn nhân lực gắn với doanh nghiệp trong ngành kinh tế tri thức và công nghệ gắn với các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp kỹ thuật cao.

Phương pháp thứ hai là thị trường định giá tổng tài sản theo giá trị cổ phiếu. Với doanh nghiệp đã ra chứng khoán thì có thể định giá tổng tài sản theo giá trị cổ phiếu. Với các doanh nghiệp chưa ra chứng khoán thì có thể vận dụng kỹ thuật lai gồm ba bước so sánh tương tự.

Bước 1: tìm các doanh nghiệp cùng lĩnh vực và lấy trị số P/E trung bình của các doanh nghiệp này. Tỷ lệ hay còn gọi là bội số P/E là tỷ lệ giá cổ phiếu trên lợi tức. Bước 2: căn cứ lợi tức được công bố để xem xét công ty nào có lợi tức tương đương. Bước 3: hiệu chỉnh P/E một cách hợp lý và xem nó như tỷ lệ vốn hóa đảo ngược.

Phương pháp thứ ba là phương pháp lợi tức hay còn gọi là dòng tiền chiết khấu. Giá trị của doanh nghiệp là giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai mà doanh nghiệp sẽ tạo ra. Để xác định tỷ lệ chiết khấu thường sử dụng mô hình CAPM (Capital Asset Pricing Model) hoặc WACC (Weighted Average Cost of Capital). Để xác định tỷ lệ vốn hóa có thể dùng phương pháp lượng giá theo bội số (Multiple Based Valuation Method). Một trong những bội số sử dụng phổ biến là bội số P/E vừa xét ở trên.

Phương pháp định giá công nghệ
TS. Lục Dư Khương, Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ Bộ Khoa học và Công nghệ

Ở Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ công nghệ sản xuất còn lạc hậu. Để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt trong xu thế hội nhập, doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Muốn vậy doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ và biết đánh giá công nghệ.

Việc nghiên cứu phương pháp luận và tìm hiểu các phương pháp định giá công nghệ là cần thiết vì không những giúp cho doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới công nghệ, phát triển thị trường công nghệ mà còn tạo điều kiện góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.

Một số phương pháp định giá công nghệ được sử dụng bao gồm phương pháp so sánh, cạnh tranh, qui tắc ngón tay cái, phân chia lợi nhuận, phương pháp chi phí, thị trường và phương pháp thu nhập. Các doanh nghiệp dù là bên mua hay bên bán cũng đều có nhu cầu về định giá công nghệ, bảo đảm cho việc ký kết hợp đồng chuyên giao công nghệ nhanh chóng và thuận lợi. Định giá công nghệ là hoạt động phức tạp và tốn kém.

Theo các chuyên gia Hàn Quốc, để định giá một công nghệ trung bình, chi phí phải bỏ ra cỡ 20.000-30.000 USD. Như vậy không nên và không thể định giá tràn lan, phải có mục đích cụ thể và địa chỉ áp dụng cụ thể. Giá của công nghệ trong các hợp đồng chuyển giao nói chung là do bên mua và bên bán công nghệ thỏa thuận.

Việc định giá công nghệ chỉ mang tính tham khảo cho các bên. Giá cả cuối cùng phải do các bên thương thảo quyết định. Mặc dù vậy, cá nhân hoặc tổ chức tiến hành hoạt động định giá công nghệ phải định giá một cách khách quan, trung thực, dựa trên cơ sở khoa học và chịu trách nhiệm và kết quả hoạt động của mình.

Có nhiều phương pháp định giá công nghệ khác nhau. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng và điều kiện áp dụng khác nhau. Để thúc đẩy hoạt động định giá công nghệ, nên sớm hình thành các tổ chức sự nghiệp chuyên sâu về định giá công nghệ, đặc biệt là tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ và cần có sự quản lý thống nhất trong toàn quốc về hoạt động định giá công nghệ để hoạt động này thực sự thúc đẩy chuyển giao công nghệ và phát triển thị trường công nghệ của Việt Nam trong tương lai.

Bốn yếu tố sử dụng hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ
LS Nguyễn Thị Phi Nga, Văn phòng Luật sư Phạm và Liên Danh

Phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp dựa trên các yếu tố cơ bản. Yếu tố đầu tiên là xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Xác lập quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa to lớn trong việc quản lý tài sản trí tuệ của doanh nghiệp.

Đặc biệt điều này quan trọng vì pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới qui định quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa không đương nhiên thuộc về người đầu tiên tạo ra hoặc sử dụng chúng mà được xác lập trên cơ sở nộp đơn đăng ký.

Pháp luật cũng có qui định chặt chẽ để xác định đối tượng sở hữu trí tuệ có được chấp nhận bảo hộ hay không. Yếu tố thứ hai là khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Khai thác hiệu quả các quyền sở hữu trí tuệ giúp doanh nghiệp có được những lợi thế cạnh tranh to lớn. doanh nghiệp có thể khai thác quyền sở hữu trí tuệ của mình dưới nhiều hình thức như bán hoặc trao đổi li-xăng, sử dụng quyền sáng chế góp vốn trong liên doanh, hay tiếp cận các nguồn vốn đầu tư tài chính để mở rộng sản xuất.

Khai thác quyền sở hữu trí tuệ còn được hiểu ở việc khai thác quyền sở hữu trí tuệ của người khác để phát triển kế hoạch kinh doanh hiệu quả hơn.

Thành công của doanh nghiệp phụ thuộc không nhỏ vào khả năng quản lý và khai thác hiệu quả tài sản trí tuệ và sử dụng chúng trong hoạch định chiến lược.

Tuy nhiên doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến yếu tố thứ ba trong phát triển quyền sở hữu trí tuệ, đó là giám sát. Giám sát quyền sở hữu trí tuệ là việc làm thường xuyên tham khảo, tra cứu các cơ sở dữ liệu về quyền sở hữu trí tuệ, là bước đi không thể thiếu trong chiến lược phát triển tài sản trí tuệ.

Giám sát sở hữu trí tuệ giúp doanh nghiệp tránh được các chi phí không cần thiết cho việc nghiên cứu các vấn đề người khác đã nghiên cứu trước, phát hiện và đánh giá các quyền sở hữu trí tuệ để mua lixăng hoặc chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Công việc giám sát đòi hỏi phải có cơ sở kỹ thuật và dữ liệu về các quyền sở hữu trí tuệ rất lớn.

Do vậy, các doanh nghiệp cần có bộ phận sở hữu trí tuệ nếu không thì nên sử dụng dịch vụ của các tổ chức có chức năng tư vấn. Yếu tố cuối cùng là thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

Mọi cố gắng trong việc nghiên cứu phát triển, xác lập và khai thác quyền sở hữu trí tuệ sẽ không còn ý nghĩa nếu các quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm không được thực thi một cách hữu hiệu. Đó là vì mục đích chủ yếu của doanh nghiệp khi nghiên cứu phát triển và xác lập quyền đối với tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ dễ bị xâm phạm vì vậy cần phải có một chiến lược thực thi để tránh những tổn thất cho doanh nghiệp.

 

Minh Quang thục hiện

Nguồn: vneconomy.com.vn, ngày 20/11/2006