Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Cứu vớt Vòng đàm phán Doha (28/11)

06/08/2010 - 290 Lượt xem

Đây là vòng đàm phán về các thỏa thuận thương mại đa biên trong khuôn khổ WTO, và được cho là đã lâm vào thế bế tắc khi các thành viên chính là Mỹ và EU bất đồng sâu sắc. Do vậy, cho đến nay các thành viên mới chỉ đạt được thỏa thuận về nguyên tắc nhằm xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu cho nông nghiệp đã đạt được nhưng chưa đề ra được thời điểm thực thi cụ thể và chưa có mấy bước tiến mới trên thực tế.

Trong lĩnh vực dịch vụ, hầu như chưa có một dòng đề xuất nào, chứ chưa nói đến việc thực thi, mặc dù thời hạn để kết thúc vòng đàm phán là năm nay, 2006.

Vì lịch sử kinh tế thế giới đã cho thấy rõ chính sách thương mại phải không ngừng tiến lên phía trước nếu không sẽ chịu rủi ro rơi trở lại chủ nghĩa bảo hộ hoặc trọng thương (hiện tại cũng có nghĩa là gia tốc thêm cho xu hướng nhắm đến chủ nghĩa thương mại song phương), hậu quả của sự thất bại của Vòng đàm phán Doha đối với an ninh quốc tế và quan hệ thương mại toàn cầu sẽ là rất lớn.

Tình trạng bế tắc của Vòng Doha không chỉ do những bất đồng sâu sắc giữa Mỹ và EU, Nhật trong các vấn đề bảo hộ như trợ cấp trong nông nghiệp. Có lẽ 3 nguyên nhân chính cho sự thất bại này là: sự mất cân đối lớn trên tài khoản vãng lai và lên giá bản tệ đã đẩy các nhà ngoại giao thương mại của cả Mỹ và EU vào thế phải bảo hộ đến cùng.; thái độ chống đối tòan cầu hóa mạnh và không ngừng tăng mà trên thực tế làm bế tắc hòan toàn mọi cuộc thương lượng thương mại giữa Mỹ và EU, cũng như ở những nơi khác trên thế giới; và sự thiếu vắng một lý do thuyết phục để các nhà lãnh đạo chính trị của các quốc gia chống đối quyết định nhượng bộ và quay lại ngồi vào đàm phán và ký kết thỏa thuận. Tiến bộ trên mỗi một phương diện này là điều kiện cần để các nhà đàm phán Doha tiến về phía trước.

Về nguyên nhân thứ nhất, thâm hụt tài khỏan của Mỹ đã lên mức 800 tỷ USD vào nửa đầu năm 2005, chiếm hơn 6% GDP của Mỹ, và tiếp tục tăng thêm 100 tỷ USD mỗi năm - một tốc độ quá nhanh và rủi ro. Do vậy, Mỹ phải liên tục dựa vào vay nước ngoài để tài trợ cho mức thâm hụt không bền vững này, và nợ nước ngoài đã chiếm đến hơn 50% GDP của Mỹ.

Kết cục là USD đã lên giá so với bản tệ của các đối tác thương mại chính tới 25%. Lịch sử của chính sách thương mại của Mỹ cho thấy thâm hụt thương mại với quy mô lớn và đồng USD lên giá là nguyên nhân chính đằng sau việc thi hành các chính sách bảo hộ của Mỹ. 

Điều tương tự cũng xảy ra với đồng Euro khi nó tiếp tục lên giá trong giai đoạn 2002-2004 so với các đồng tiền của các đối tác thương mại châu Á do các nước này đã định giá bản tệ của họ dưới mức giá trị thật để duy trì tính cạnh tranh với Trung Quốc.

Bởi vậy, thái độ bảo hộ đã dấy lên mạnh mẽ ở Ý, Pháp, và kể cả Đức, nước có truyền thống tự do thương mại. Do đó, sự điều chỉnh lớn về tỷ giá, trước tiên với việc nâng giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc lên ít nhất 20-30%, và sau đó là các đồng tiền khác ở châu Á lên mức cao hơn so với USD và euro là điều thiết yếu dẫn đến thành công trong các cuộc thương lượng.   

Về nguyên nhân thứ hai, còn nhớ những cuộc đàm phán thương mại đa biên trước đây ở các nước như Indonesia và Hong Kong được chào đón bằng những đám đông biểu tình giương cao những biểu ngữ chống toàn cầu hóa. Thái độ chống đối này là những trở ngại to lớn để thúc đẩy tự do hóa thương mại hơn nữa.

Ngay ở Mỹ, người dân bị chia rẽ mạnh về toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại. Một nửa lực lượng lao động Mỹ (chỉ có trình độ học vấn phổ thông) nhìn nhận tự do thương mại với con mắt sợ hãi. Bởi vậy, không khó hiểu khi thấy Quốc hội Mỹ chia rẽ với tỷ lệ khá đồng đều trong các cuộc bỏ phiếu thông qua các luật lệ về thương mại quốc tế. Điều tương tự cũng xảy ra ở châu Âu.  

Giải pháp nào để Vòng Doha thành công? Cho đến nay đã có nhiều bước đi để khắc phục các trở ngại dẫn đến thành công của Vòng Doha. Thâm hụt thương mại của Mỹ đã giảm đáng kể trong một hai năm gần đây. Đồng USD đã lên giá trên 10% trong vòng 2002-2005 và đồng NDT lên giá 2% năm 2005, và tiếp tục được điều chỉnh tăng nhẹ.

Cải cách giáo dục đã được thúc đẩy ở Mỹ để nâng cao học thức và cơ hội kiếm việc làm mới nhằm đối phó với những hậu quả tiêu cực của tự do hóa thương mại lên việc làm. Còn ở châu Âu, điều chỉnh tái cơ cấu (bao gồm cả khu vực nông nghiệp) đã được khởi động để khôi phục lại tốc độ tăng trưởng và lòng tin vào tự do hóa thương mại của dân chúng.

Nhưng những biện pháp này vẫn còn rất hạn chế. Những nhà thương thuyết thương mại cần có sự phối hợp của tòan bộ chính phủ của họ. Các bộ trưởng nông nghiệp là nhân vật chủ chốt trong thương lượng nhưng họ sẽ không tiến được xa nếu các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương không có các biện pháp điều chỉnh giá trị bản tệ và tiến hành các chính sách kinh tế cần thiết khác. Các bộ trưởng lao động phải thực hiện các cải cách trên thị trường lao động để giúp công nhân điều chỉnh hữu hiệu hơn với điều kiện mới trên thị trường lao động ở Mỹ và châu Âu.

Tuy vậy, những thay đổi về chính sách này về thực chất là thay đổi chính trị, và rốt cuộc thì phụ thuộc hòan toàn vào người đứng đầu các chính phủ. Nếu chính phủ của các quốc gia công nghiệp hóa hàng đầu nghiêm túc về Doha thì họ sẽ dành một phần quan trọng trong chương trình hoạch định chính sách trong nước cho những vấn đề này trong các năm tới.

Xét trên khía cạnh này, cam kết mạnh mẽ của các nguyên thủ quốc gia tại APEC 14 Hà Nội là một dấu hiệu tích cực cho hy vọng thành công của Doha. Tuy vậy, cần lưu ý là cam kết này đã không ít lần được đưa ra tại các hội nghị thượng đỉnh G-7 (không gồm Nga) và G-8. Điều mà các nhà quan sát trông chờ là những chính sách cụ thể để biến cam kết thành hiện thực, chứ không phải chỉ là bản thân những cam kết, cho dù có mạnh mẽ đến đâu.

Ngoài ra, chỉ riêng G-8 không thôi thì không thể dẫn đến thành công của vòng Doha. Các nước đang phát triển chính như Ấn Độ, Brazil, và Trung Quốc phải tham gia tích cực vào mọi nỗ lực để kết thúc vòng Doha trong thành công. Theo hướng này, sáng kiến tổ chức những cuộc đối thoại đa phương giữa các nước đang phát triển lớn và G-8 tỏ ra có ý nghĩa thực tiễn.

 

TS. Phan Minh Ngọc (Đại học Kyushu, Nhật Bản)

Nguồn: vneconomy.com.Việt Nam, ngày 28/11/2006