
Tin tức
10 năm nữa, VN đạt mức phát triển bây giờ của Hàn quốc (30/11)
06/08/2010 - 285 Lượt xem
Rời Dhaka vào sáng ngày 28/10, một ngày quyết định đối với tương lai chính trị của Bangladesh mà đến nay vẫn là một mối lo ngại, tôi có cơ hội được nhìn thấy sân bay Suvarnabhumi, sân bay lớn nhất ở Đông Nam Á mới mở trong một ngày gần đây để thay thế cho sân bay già nua Don Muang, Bangkok.
Đây là cơ hội hiếm có để tôi có thể so sánh với sân bay Zia của Bangladest và quan sát sự khác biệt. Thái Lan cũng mới không may trải qua đảo chính quân sự khi Thủ tướng đã bị lật đổ Thaksin Shinawatra tham dự khóa họp Đại hội đồng Liên hợp quốc. Sự tương phản giữa cách người Thái giải quyết các vấn đề của họ với cách của Bangladesh là quá rõ ràng.
Khi đất nước trong vòng rối loạn với những bất ổn chính trị, tôi ra đi với một cảm giác tội lỗi. Quan sát ngắn ngủi về sân bay Suvarnabhumi thay thế sân bay già nua Don Muang mang đến cho tôi một thông điệp rõ ràng về người Thái.
Sân bay mới thực tế nằm gần tỉnh Samut Prakan, khoảng 25 km về phía Đông của Banhkok. Suvarnabhumi được đặt theo tên của Nhà vua Bhumibol Adulyadej và có nghĩa là “Mảnh đất vàng” theo tiếng Thái, mặc dù theo phiên âm tiếng Anh nó có thể bị du khách phát âm nhầm thành “su-wan-na-poom”.
Đối với tôi, trình độ tiếng Anh của các hướng dẫn viên tại sân bay rất tốt, tiếng Thái và tiếng Anh của họ gần như nhau. Sân bay Don Muang cũ có 3 cổng, trong khi sân bay Suvarnabhumi chỉ có một cổng (rất rộng) cho tất cả các chuyến bay quốc tế và nội địa.
Dù sao đi nữa, qui mô và trang thiết bị của nó là đáng kinh ngạc. Toà nhà sử dụng làm cổng của sân bay chiếm diện tích 563.000 mét vuông, lớn thứ hai trên thế giới. Chẳng có nghi ngờ gì khi người Thái dành 3 tỷ USD để xây dựng sân bay này.
Từ sân bay Suvarnabhumi, tôi rời Thái Lan đi Hà Nội.
Tôi đã biết nhiều về Hà Nội, nhưng dường như Hà Nội là thành phố tốt hơn rất nhiều so với tưởng tượng mà tôi có trong đầu. Những nơi mà tôi đến thăm được bố trí ngăn nắp hơn. Không có quá nhiều cao ốc, nhưng nhiều nhà cao tầng đang được xây dựng. Ở khu vực mới của thành phố, đường phố khá rộng và dân cư thưa hơn. Đường phố sạch và có lẽ được chăm sóc kỹ hơn do Hội nghị Thượng đỉnh APEC đang diễn ra.
Dù sao đi nữa, thời điểm này Hà Nội đang trải qua những thay đổi nhanh chóng, rất nhiều công trình xây dựng được mở, các tòa cao ốc với biển quảng cáo của các công ty đa quốc gia ở khắp mọi nơi. Mọi thứ đều có thể được làm một cách dễ dàng. Tôi có được chiếc điện thoại di động cho riêng mình trong 10 phút; mở được tài khoản ngân hàng chỉ với vài trang hộ chiếu photocopy và visa, không cần tiền ký quỹ và cả người giới thiệu.
Khi được hỏi rằng tôi cần phải cẩn thận thế nào khi phải đối diện với những kẻ vi phạm pháp luật ở ngoài đường phố hoặc khu dân cư, một nữ nghiên cứu viên tại Viện Kinh tế và Chính trị Quốc tế (IWEP), nơi tôi đang tiến hành nghiên cứu, bảo với tôi rằng, chẳng có lý do gì làm tôi phải lo lắng như thế, tình hình trật tự và luật pháp ở Hà Nội, cũng như ở Việt Nam là rất tốt. Đến nay, tôi chưa hề gặp bất cứ vấn đề gì.
Về mặt kinh tế, có nhiều điều kiện cơ bản cho phát triển. Phương Tây có thể đáp ứng sự xa xỉ bằng cách làm cho mọi thứ trở nên khó khăn hơn vì họ đã phát triển rồi. Bangladesh không thể, nhưng Bangladesh vẫn làm. Việt Nam sẽ tiến xa về phía trước Bangladesh (thực tế họ đã làm được) trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Thực phẩm rẻ hơn ở Bangladesh. Hoa quả dường như không mất hương vị tự nhiên do sử dụng hoá chất. Chi phí đi lại hợp lý, duy chỉ có cước viễn thông chắc chắn cao hơn Bangladesh. Tôi tin rằng quyết định hạ giá cước sẽ diễn ra sau một đêm.
Nhưng bạn sẽ không thể thay đổi được suy nghĩ của mọi người sau một đêm vì điều này là cả một quá trình, không phải là một sự kiện. Liệu bạn có thể thay đổi chỉ sau một đêm tất cả những luật lệ được xây dựng trong một thế kỷ để làm mọi thứ phức tạp hơn.
Những năm vừa qua của Việt Nam là khá tốt. Việt Nam tăng gấp đôi Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong thập kỷ 1991-2000. Trong khi kinh tế tăng ở mức 4,6% trong thập kỷ 1980-1990, đạt 7,5% trong giai đoạn 1990-2003 (Theo Báo chí Chỉ số phát triển thế giới của Ngân hàng Thế giới WB năm 2005). Trong năm 2005, kinh tế tăng 8,2%, nhanh hơn mức bình quân trong 5 năm.
Một phân tích về cơ cấu tăng trưởng của kinh tế Việt Nam cho thấy, trong năm 2003 khoảng 38% tăng trưởng do lĩnh vực dịch vụ, hơn 40% từ lĩnh vực công nghiệp và chế tạo và khoảng 22% từ nông nghiệp. Trong năm 1990, tỷ lệ tương ứng cho các lĩnh vực này là 38%, 23% và 39%. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm 17% trong giai đoạn 1990-2003. Từ một nước thiếu lương thực kinh niên, Việt Nam tiến nhanh thành một trong những nước xuất khẩu nông sản và các sản phẩm khác lớn trên thế giới trong những năm 1990.
Có thể đánh giá như thế nào về mức độ những tiến bộ về kinh tế theo mô hình kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa hoặc bằng chính quá trình cải cách có tên gọi là Đổi mới của Việt Nam? Như Bangladesh biết, Đổi mới bắt đầu từ 1989 với 2 cải cách thành công: đầu tiên là phân bổ phương tiện sản xuất (đặc biệt là đất) cho các hộ gia đình, sau đó là tiến hành tự do hóa kinh tế và mở cửa kinh tế đối ngoại.
Trong khi thi hành chính sách Đổi mới, Chính phủ không hoàn toàn bỏ mặc các chính sách nông nghiệp và công tác xóa đói giảm nghèo. Câu hỏi đặt ra là có phải tiến bộ kinh tế của Việt Nam bắt đầu vì Đổi mới? hoặc có phải nó diễn ra như là sự mở rộng của các biện pháp chính sách xã hội chủ nghĩa? hoặc cả hai lý do trên bổ sung cho nhau trong tăng trưởng kinh tế?
Đối với Bangladesh, chúng ta cũng tìm thấy quá trình cải cách bắt đầu từ năm 1982. Tuy giai đoạn đầu diễn ra chậm, quá trình tự do hóa đã tạo đà cho những năm 1990. Bangladesh đã tiến hành hàng loạt biện pháp để mở cửa nền kinh tế bằng việc thay thế nền kinh tế chính trị Nhà nước bằng cơ chế thị trường.
Mục tiêu của việc tái định hướng chính sách kinh tế như vậy là để bảo đảm tăng trưởng và giảm tỷ lệ nghèo thông qua việc đưa lĩnh vực tư nhân làm trụ cột chính của Chiến lược phát triển kinh tế. Những thay đổi trong các chính sách giúp kinh tế Bangladesh có mức tăng trưởng vừa phải. Trong giai đoạn 1980-1990, kinh tế tăng với tỷ lệ 3,7%, đạt mức 4,9% trong giai đoạn 1990-2003.
Dù mức tăng trưởng đã đạt mức cao hơn trong ít nhất hai năm qua và dự kiến có thể tăng tốt hơn trong năm tài chính năm nay, nhưng không thể vượt ngưỡng 7%. Bangladest cũng nhận thấy tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 3,1% từ mức 2,1% trong các giai đoạn 1980-1990 và 1990-2003. Đến nay, Bangladesh vẫn chưa đáp ứng nhu cầu lương thực cơ bản.
Về vấn đề xóa nghèo, kể từ khi thống nhất đất nước năm 1975, Chính phủ Việt Nam coi xoá đói giảm ghèo là nhiệm vụ trung tâm. Đây cũng được coi là một động lực đằng sau cải cách kinh tế khởi xướng từ năm 1989. Tỷ lệ nghèo của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở Khảo sát về tiêu chuẩn sống của Việt Nam năm 1993, theo đó khoảng 51% dân số Việt Nam được coi là nghèo.
Các khảo sát liên tục vào năm 1998 và 2002 cho thấy tỷ lệ dân số dưới mức nghèo đã giảm tương ứng xuống còn 37,4% và 28,9%. Sự khác biệt về tỷ lệ người nghèo giữa dân cư nông thôn và dân cư thành thị là rất cao (tương ứng 35,6% và 6,6% trong năm 2002). Tỷ lệ người nghèo còn giảm hơn nữa, xuống còn 20% năm 2004 (Theo The Economist, 2005).
Bức tranh nghèo đói ở Bangladesh còn đáng thất vọng, chưa có nhiều tiến bộ trong những năm qua. Trong năm 1991, có đến 47,5% dân số sống dưới mức nghèo. Tại thời điểm đó, tỷ lệ nghèo ở nông thôn cao hơn một chút so với thành thị, với mức tương ứng là 47,6% và 46,7%. Trong năm 1999, 45,6% dân số vẫn sống dưới mức nghèo, và giảm xuống còn 40,1% trong năm 2004.
Việt Nam đã nổi lên như một ngôi sao sáng trong lĩnh vực thương mại, trở thành một trong rất ít nước có tổng trao đổi hàng hóa lớn hơn tổng GDP. Với dân số 84 triệu người, GDP của Việt Nam đã gần bằng Bangladesh. Độc giả cũng cần biết rằng, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), điều kiện phù hợp chắc chắn sẽ tác động đến thương mại và tỷ lệ nghèo. Đến nay, nông nghiệp vẫn là lĩnh vực có mức độ bảo hộ cao nhất tại Việt Nam. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được từ thực tế là trong năm 2004 khi tỷ lệ thuế cho tất cả các loại hàng hóa là 16,8%, thì tỷ lệ thuế đối với nông sản là 24,5%.
Khi ra nhập WTO và ký Hiệp định về Nông nghiệp (AoA), Việt Nam sẽ phải giảm thuế và các rào cản phi thuế quan đối với buôn bán nông sản để hài hòa với mức độ cam kết trong một khoảng thời gian cụ thể. Thêm nữa, Việt Nam sẽ phải giảm trợ cấp nông nghiệp đến mức 0% vào năm 2013. Điều này sẽ có ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực đối với nền nông nghiệp Việt Nam. Kinh nghiệm của Bangladesh cho thấy giá cả đối với hầu hết các nông sản tăng đều kể từ khi Bangladesh ra nhập WTO năm 1995.
Vài ngày trở lại đây, tôi đã có cuộc gặp xã giao với Đại sứ của Bangladesh tại Hà Nội. Ông là một người rất lịch thiệp. Chúng tôi đã có một cuộc nói chuyện kéo dài hơn 1 giờ đồng hồ, đề cập đến rất nhiều vấn đề khác nhau. Ông nói với tôi một điều gì đó quan trọng về Việt Nam “Hãy xem, tôi đã theo dõi sự phát triển ở đây trong hai năm qua. Sau 10 năm nữa, Việt Nam sẽ đạt mức phát triển bây giờ của Hàn Quốc”. Tôi chẳng có gì đồng tình hay không đồng tình với ông vì tôi chưa bao giờ đến Hàn Quốc. Ông nói thêm “Việt Nam có triển vọng tốt hơn Malaysia”. Ông không giải thích lý do. Tôi đóng vai trò một người nghe chăm chú.
Thực tế là toàn bộ khu vực Đông và Đông Nam á đang tiến về phía trước rất nhanh. Trong cuộc đua đó, Bangladesh đã bị tụt lại phía sau mỗi năm đi qua. Nhưng điều chớ trêu là Hàn Quốc không phải là đối thủ đối với Bangladest thậm chí trong những năm 1950, hãy quên Malaysia đi. Bây giờ các bạn sẽ nhìn thấy sự khác biệt. Ngay sau khi giải phóng đất nước, Bangladest muốn xây dựng mô hình như Hàn Quốc. Khi Hàn Quốc dường như trở thành một mục tiêu quá cao để theo, Bangladest bắt đầu nói về Malaysia.
Một vị tướng của Bangladesh trở thành Tổng thống đã từng nói về xây dựng Bangladesh theo mô hình Indonesia. Tôi hy vọng Bangladesh sẽ không có ngày phải nghe về mô hình Myanmar cho sự phát triển của Bangladesh. Ai mà biết được? Nhưng vào lúc này đây đó là tiếng gọi từ Việt Nam.
Phương Loan (gt)
Nguồn: vietnammet.vn, ngày 30/11/2006
