
Kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006
06/08/2010 - 584 Lượt xem
Theo ông Vũ Văn Tuấn, Vụ trưởng Vụ Điều tra công nghiệp và xây dựng, điều tra doanh nghiệp năm 2006 tập trung vào những chỉ tiêu cơ bản như số lượng doanh nghiệp được phân theo quy mô lao động và nguồn vốn; theo loại hình doanh nghiệp, ngành kinh tế và các tiêu thức phân bổ khác.
Bên cạnh đó, còn có các tiêu chí về: lao động và thu nhập của lao động; nguồn vốn và tài sản cố định của doanh nghiệp; doanh thu, lợi nhuận trước thuế, nộp ngân sách của doanh nghiệp; đầu tư của doanh nghiệp trong năm.
Ngoài ra, những chỉ tiêu về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như tỷ suất lợi nhuận, lỗ - lãi và tài sản cố định tính bình quân trên mỗi doanh nghiệp... cũng được tính đến.
Đóng góp vào GDP ngày càng tăng
Qua điều tra cho thấy, tính đến 31/12/2005 số doanh nghiệp đang thực tế hoạt động là 113.352 doanh nghiệp, tăng 23,54% so với thời điểm 31/12/2004.
Tính bình quân trong 5 năm qua từ 2001 - 2005 số doanh nghiệp tăng 27,9%/năm. Mỗi năm số doanh nghiệp thực tế hoạt động tăng thêm 14.213 doanh nghiệp.
Trong số các doanh nghiệp đang hoạt động, lĩnh vực thương nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất 41,59% ( 47.139 doanh nghiệp); doanh nghiệp công nghiệp chiếm 22,55% (25.564 doanh nghiệp).
Tiếp theo là các lĩnh vực xây dựng chiếm 13,46%; vận tải 5,97%; khách sạn - nhà hàng chiếm 4,18%; nông nghiệp và thuỷ sản 2,14%; các ngành dịch vụ khác chiếm 10,12%.
Với số lượng ngày càng đông, sự đóng góp của doanh nghiệp vào GDP chung của đất nước ngày càng tăng. Năm 2005, mức đóng góp này dự kiến là 53% GDP. Bên cạnh đó, đầu tư hàng năm của doanh nghiệp chiếm khoảng 55% trong tổng đầu tư chung của cả nước, và tỷ trọng này đang ngày càng có xu hướng tăng lên.
Các doanh nghiệp cũng đã giải quyết việc làm mới cho trên 541 ngàn người mỗi năm. Trong quá trình phát triển doanh nghiệp đã có sự sắp xếp và phân bổ lại theo xu hướng tích cực, phù hợp với chủ trưởng phát triển doanh nghiệp của Nhà nước.
Trong đó, doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số lượng nhưng lớn mạnh hơn về quy mô; doanh nghiệp dân doanh phát triển nhanh nhưng quy mô còn nhỏ, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tăng đều và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Cụ thể, nếu như năm 2000 cả nước có 5.759 doanh nghiệp nhà nước, đến cuối năm 2005 còn 4.086 doanh nghiệp. Số lượng giảm nhưng quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Số vốn bình quân một doanh nghiệp nhà nước năm 2000 là 130 tỷ đồng đến 2005 tăng lên 355 tỷ đồng; tương tự số lao động đã tăng từ 363 người lên 499 người.
Trong khi đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng rất nhanh về số lượng. Năm 2000 mới có 35.004 doanh nghiệp hoạt động, đến 2005 đã lên đến 105.569 doanh nghiệp, mỗi năm tăng trung bình 14.113 doanh nghiệp.
Thông qua các chỉ tiêu cơ bản như lao động bình quân năm 2005 là 32 người/doanh nghiệp tăng không đáng kể so với mức 30 người năm 2000; số vốn bình quân đạt 7 tỷ đồng/doanh nghiệp so với 3 tỷ đồng cách đây 5 năm... cho thấy đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ. doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là lực lượng được đánh giá là có sự tăng trưởng đều và ổn định nhất.
Đến cuối 2005, đã có 3.697 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài so với 1.525 doanh nghiệp năm 2000, mỗi năm tăng 434 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp này sẽ tăng lên trong thời gian tới do thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đầy rất khả quan.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh qua đợt điều tra này đều có mức tăng trưởng khá mạnh. Tổng doanh thu thuần 2005 đạt 2.223.086 tỷ đồng tăng 27,03% so với năm năm 2004, bình quân giai đoạn 2001 - 2005 tăng 28,72%/năm.
Trong các ngành sản xuất - kinh doanh chính, công nghiệp tăng bình quân 31,26%, xây dựng: 29,51%, thương nghiệp 24,23%, vận tải 31,76%, khách sạn - nhà hàng 26,26%, các dịch vụ khác 39,96%.
Tuy nhiên, đi sâu vào phân tích cho thấy, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn đạt thấp và có xu hướng giảm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn bình quân năm 2005 đạt 4,42%, so với mức 4,85% năm 2004.
Trong khi đó, số doanh nghiệp lỗ và mức lỗ bình quân một doanh nghiệp giảm tương đối. Số doanh nghiệp lỗ năm 2005 chiếm 27, 35% với mức lỗ bình quân 1 doanh nghiệp là 592 triệu đồng, số doanh nghiệp lãi chiếm 62,58% và mức lãi bình quân mỗi doanh nghiệp là 1.931 triệu đồng.
Kết quả điều tra tiếp tục làm bộc lộ điểm yếu lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam là quy mô nhìn chung vẫn còn nhỏ và siêu nhỏ, đi kèm với trình độ công nghệ còn thấp.
Nếu lấy tiêu chí doanh nghiệp nhỏ và vừa là dưới 300 lao động và vốn dưới 10 tỷ đồng thì có tới 96,81% doanh nghiệp thuộc nhóm nhỏ và vừa. Trong đó, nếu xét về quy mô lao động thì số doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 51.3%, từ 10 - 200 lao động chiếm 44,07%, từ 200 - 300 lao động chỉ chiếm 1,43%.
Nếu xét dưới tiêu chí vốn thì số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%, doanh nghiệp có 1 - 5 tỷ đồng tiền vốn chiếm 37,03%, doanh nghiệp có 5 - 10 tỷ đồng tiền vốn chỉ chiếm 8,18%.
Về trình độ công nghệ, nếu xét dưới góc độ trang bị tài sản cố định thì số doanh nghiệp có tài sản cố định dưới 5 tỷ đồng chiếm 86%. Tài sản cố định của doanh nghiệp như trên là thấp nhưng nếu nếu xét trên tiêu chí tài sản cố định trên mỗi lao động lại càng thấp hơn, bình quân 1 lao động chỉ đạt 153 triệu đồng.
Trong đó, doanh nghiệp nhà nước khả dĩ nhất là 239 triệu đồng/lao động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 221 triệu đồng/lao động, doanh nghiệp ngoài quốc doanh đứng thấp nhất 66 triệu đồng/lao động.
Tổng cục Thống kê cho biết, đây chỉ mới là số liệu công bố nhanh, các số liệu điều tra sẽ tiếp tục được phân tích sâu hơn, xây dựng kho dữ liệu để làm cơ sở tham khảo, xây dựng các chính sách cho doanh nghiệp...
Đồng thời, từ số liệu này sẽ phân tích sâu về một số chuyên đề như đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu vực doanh nghiệp, các cơ sở kinh tế thuộc doanh nghiệp, đầu tư của các doanh nghiệp.
Lê Phong
Nguồn: vneconomy.com.vn, ngày 7/12/2006
