
Giám đốc WB nói về sự lạc quan và tham vọng VN (15/02)
06/08/2010 - 453 Lượt xem
Ông nói khi chia tay, điều khiến nhà điều phối các chương trình viện trợ nước ngoài cho VN nhớ nhất chính là "niềm lạc quan và tham vọng đạt được thành công không chỉ về mặt cá nhân và là thành công của cộng đồng". Theo Klaus Rohland, đó là điều đặc biệt làm nên sức mạnh của Việt Nam.
Hợp tác viện trợ: Chính phủ VN độc lập và tự chủ
Là người gắn bó khá lâu với Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về mức độ độc lập của Chính phủ VN trong quá trình hợp tác với các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới?
- Quan điểm của tôi trong vấn đề này rất đơn giản. Điều này liên quan đến vấn đề văn hoá và truyền thống. Người VN biết cái gì tốt nhất cho đất nước mình. Họ biết tốt hơn chúng tôi. Và mỗi quốc gia có những đặc trưng văn hoá truyền thống riêng, sẽ chi phối những quyết định của chính phủ một nước trong quá trình ra và thực hiện các quyết định. Đó là xuất phát điểm cho sự hợp tác.
Nếu có sự khác biệt về quan điểm trong khi thảo luận giữa chúng tôi với chính phủ, chúng tôi sẽ đặt câu hỏi tại sao có sự khác biệt đó. Và câu trả lời thật dễ hiểu. Bởi ý kiến của chúng tôi không thích hợp với những gì được làm ở VN. Chuyển đổi là điều đặc biệt quan trọng. Chúng tôi dựa trên kinh nghiệm quốc tế.
Kể từ khi chúng tôi làm việc với trên 130 quốc gia trên thế giới, chúng tôi đã chứng kiến cái gì hoạt động và cái gì không hoạt động ở mỗi quốc gia. Chúng tôi có những kiến thức về hoạt động cụ thể ở các quốc gia. Do đó, chúng tôi cố gắng cung cấp thông tin nhiều nhất cho chính phủ từ kinh nghiệm của chúng tôi để các bạn quyết định.
Và tôi tin tưởng hơn trong việc hợp tác dựa trên cơ sở đối thoại. Cuối cùng, Chính phủ phải là người đưa ra quyết định và tự thực hiện. Chính các bạn phải thực hiện công việc và tin vào việc các bạn làm. Chúng ta tuỳ thuộc lẫn nhau. Chúng tôi có thể đưa ra những lời khuyên, tiến hành các hoạt động về mặt kỹ thuật nhưng về mặt chính trị, việc quyết định thực hiện là của các bạn.
Một số người bên nước ngoài nói rằng, đôi lúc họ kiên nhẫn trong việc chờ đợi kết quả cải cách trong doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước. Cách nhìn nhận của tôi trong vấn đề này rất đơn giản. Người VN đang chuẩn bị cho việc đổi mới những tập tục, thói quen. Họ đang xem xét lợi ích của việc đổi mới. Và họ cần tự quyết định trong cuộc tranh luận này.
Việt Nam không phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài
Theo ông có phải sự phát triển của Việt Nam đang phụ thuộc chủ yếu vào sự hỗ trợ của nước ngoài? Và liệu có một ngày, VN có thể tự mình phát triển mà không cần đến sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế và các nước khác?
- Về câu hỏi VN phụ thuộc vào sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế hay không? Hãy nhìn vào các con số: trong GDP của VN, sản xuất nội địa chiếm khoảng 48 tỷ USD. Các nhà tài trợ giúp VN 2 tỷ USD.
Hiện nay VN phụ thuộc vào các nhà tài trợ nước ngoài để phát triển trong một số lĩnh vực. Nhưng so với tiêu chuẩn quốc tế, một quốc gia được xem là phụ thuộc vào tài trợ nước ngoài khi tỷ lệ hỗ trợ nước ngoài chiếm 30-40% GDP. VN không phải là nước phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài.
Tuy nhiên, ngày nay, không quốc gia nào có thể tồn tại độc lập một mình. Quốc gia này phụ thuộc vào quốc gia khác. Điều này đúng với VN, với Đức - quê hương tôi, với Mỹ và tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó là sự tuỳ thuộc lẫn nhau.
Khi VN phát triển, trở nên giàu có hơn, cách thức hợp tác sẽ thay đổi. Các nhà tài trợ sẽ không phải cung cấp tài chính nữa mà thay đổi lĩnh vực, thông qua trao đổi thương mại... Bạn sẽ thấy sự thay đổi ấy đang đến gần. Về phần Ngân hàng Thế giới, chúng tôi có chính sách đối ngoại rằng một khi quốc gia đạt mức GDP trên đầu người trên 1050 USD chúng tôi sẽ dần chuyển từ viện trợ không hoàn lại và cho vay lãi suất thấp sang cho vay theo cơ chế thị trường. Điều này chắc chắn sẽ xảy ra khi VN phát triển vào những năm 2012, 2014.
Sức mạnh của người VN: tham vọng thành công và lạc quan
Trong thời gian làm việc ở VN, ông đã đi đến rất nhiều tỉnh thành trong cả nước. Ông đánh giá và cảm nhận như thế nào về sự khác biệt giữa các vùng ở VN?
- VN có đến 64 tỉnh, thành phố, từ thành phố lớn, giàu có và đông dân như thành phố Hồ Chí Minh đến những tỉnh chỉ có khoảng 3.000 dân. Đó là sự khác biệt lớn. Tôi còn thấy có sự khác biệt giữa 54 dân tộc ở VN nếu so với dân tộc Kinh chiếm đa số. Điều đó làm nên sự đa dạng của VN.
Cái làm nên sức mạnh của VN là mọi người cùng tập hợp nhau từ những nền khác nhau, có môi trường sống khác nhau. Mỗi người có một quê hương, một làng xã. Nó nằm trong trái tim của mỗi người VN.
Tất nhiên bạn không thể biết về VN nếu chỉ đến TP.HCM, Đà Nẵng, hay Hà Nội. Một người bạn của tôi đến TP.HCM, và khẳng định VN là nước thu nhập hạng trung. Tôi nói, đúng vậy, nhưng hãy cùng tôi tham gia những chuyến đi tới các tỉnh miền núi, bạn sẽ thấy sự nghèo đói...
Có thể nói rằng, ở một số khu vực, VN đã là một nước thu nhập hạng trung, nhưng ở một số khu vực khác, lại là đất nước nghèo đói.
Trong thời gian làm việc tại VN, điều gì gây ấn tượng nhất với ông?
- Chính là con người VN. Tôi làm việc ở nhiều quốc gia trong gần 30 năm qua, tôi hiểu rằng bất kỳ sự hợp tác thành công nào đều cần phải xem con người là trung tâm.
Điều tạo ra sự khác biệt giữa người VN và người dân các quốc gia châu Á Thái Bình Dương khác chính là tham vọng đạt được thành công của họ. Thành công ở đây không chỉ đề cập đến mặt cá nhân: tốt nghiệp, có nhà, ô tô... mà là thành công của cộng đồng. Nhiều người VN nộp đơn xin thi tuyển vào cơ quan của chúng tôi. Khi phỏng vấn những người này, tôi hỏi lý do tại sao họ muốn làm cho Ngân hàng Thế giới. Hầu như tất cả họ đều nói rằng họ muốn làm một điều gì đó giúp ích cho sự phát triển của đất nước này. Đó chính là phát triển dân tộc, một sự phát triển mang nghĩa rộng lớn.
Điều thứ hai tôi ấn tượng về người VN là, nhìn chung, họ rất lạc quan. Trên đường đến cơ quan mỗi ngày, tôi luôn nhìn thấy sự hạnh phúc ở họ, trên đường phố, lúc sáng sớm cũng như tối mịt. Họ sống trong môi trường hạnh phúc.
Và niềm hạnh phúc, lòng mong muốn thành công của họ dẫn tới những hành động rất lạc quan. Nhìn chung, người VN rất lạc quan về tương lai của họ. Một cuộc khảo sát trên toàn cầu cũng đã đưa ra kết luận như vậy. Người VN khiến cho hầu hết mọi người có cảm giác rằng họ sống cuộc sống tốt đẹp hơn họ nghĩ. Đó là lòng tin vào tương lai. Theo tôi, điều này có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển.
Đó là những trải nghiệm chính của tôi về người VN.
Tôi sẽ trở lại VN như một du khách bình thường
Được biết trong buổi tiệc tổ chức nhân Hội nghị Tư vấn các nhà tài trợ CG vừa rồi, ông đã dùng thơ của các nhà thơ VN đặt trên mỗi bàn tiệc thết đãi quan khách. Hẳn ông rất quan tâm đến văn học và văn hoá VN. Ông có thể chia sẻ với chúng tôi về điều này?
- Chúng tôi chú trọng đến phát triển hơn là chỉ vấn đề kinh tế. Và con người tạo nên sự phát triển. Bạn phải cố gắng để hiểu văn hoá truyền thống của một đất nước.
Trong những năm qua, chúng tôi đã lựa chọn rất nhiều tên cụ thể để đặt lên mỗi bàn tiệc, có thể là tên các tỉnh, thành, có thể là tên của các món ăn nổi tiếng của VN... Điều này thể hiện rằng từ "phát triển" có ý nghĩa rộng lớn hơn, trong đó có vấn đề văn hoá. Năm nay, chúng tôi chọn tên các nhà thơ VN và tên các câu thơ của họ. Bởi, như bạn biết đấy, thơ phản ánh trái tim của con người, chứa đựng văn hoá của một quốc gia. Nếu bạn dùng thơ của một đất nước, bạn hiểu đất nước đó. Và nếu bạn biết về những câu thơ, nhà thơ yêu thích ở quốc gia đó, bạn hiểu về đất nước đó tốt hơn.
Các con số về sự phát triển, tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng nhưng còn quan trọng hơn là vấn đề lòng tin, là vấn đề hiểu được cái gì đằng sau những biểu hiện đó. Và thơ hướng dẫn cho điều đó. Thơ phản ánh niềm hạnh phúc của con người VN, đời sống tinh thần của họ và sự đề cao cha mẹ của người Việt... Đó là vấn đề văn hoá.
Trước khi rời Việt Nam, ông có điều gì nhắn nhủ đến đất nước và con người VN không thưa ông?
- Tôi muốn cảm ơn VN, đặc biệt cảm ơn những người làm việc ở trụ sở của chúng tôi, cảm ơn tất cả bạn bè. Tôi sẽ rời VN nhưng tất cả vẫn còn lưu giữ trong tâm khảm. Và chắc chắn, tôi sẽ trở lại, với tư cách một khách du lịch, một người bình thường, một người đã từng có hơn 4 năm sống và làm việc ở VN, gắn bó với mảnh đất này.
Trước khi rời VN, tôi chợt nhận ra mình sẽ rất nhớ những lần uống trà xanh trong một quán nhỏ ven đường, những mối liên hệ, những điều đặc biệt ở VN, và tất nhiên, sẽ rất nhớ con người VN
Nguồn: VietnamNẻt
