
Tin tức
Công nhân lao động - Thực tế và tương lai : 60% là lao động phổ thông (26/02)
06/08/2010 - 228 Lượt xem
Năm 2005, mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ dân số rất thấp (trên dưới 1 triệu người) nhưng lực lượng lao động công nghiệp - hay còn gọi là công nhân (CN) - đã đóng góp 650 triệu USD cho ngân sách nhà nước, chiếm 28% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
1 triệu công nhân và 650 triệu USD nộp ngân sách
Đầu những năm 1990, khi những khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) đầu tiên của TPHCM ra đời, lực lượng CN của khu vực kinh thế trọng điểm phía Nam tăng vọt. Chỉ
trong vòng 15 năm, tại TPHCM đã có 15 KCN, KCX hoạt động, thu hút trên 200.000 CN. Từ năm 1995 đến năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX của thành phố đạt 770.000 tỷ đồng. Sang giai đoạn 2001-2005 con số này đã tăng gấp đôi.
Tại Bình Dương, tiền thân là một phần của tỉnh Sông Bé, vốn là một tỉnh thuần nông, hầu như không có công nghiệp. Thế nhưng từ khi tách tỉnh (1997) chỉ trên dưới 10 năm, khi các KCN ra đời - mà điểm đột phá là KCN Sóng Thần - lực lượng CN của Bình Dương đã đạt con số trên 100.000. Giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp cho ngân sách nhà nước của Bình Dương tăng trưởng với tốc độ chóng mặt, hiện đã chiếm tới 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Chỉ với trên dưới 10 KCN nhưng đã góp trên 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh.
Tỉnh Đồng Nai, trước giải phóng đã có KCN Biên Hòa. Hơn 10 năm trở lại đây, KCN Biên Hòa như một bệ phóng đểâ Đồng Nai tăng tốc phát triển các KCN và tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Theo ông Võ Thành Lập, Phó ban quản lý các KCN tỉnh “với trên 226.000 lao động làm việc trong 19 KCN, trong năm 2005 đã tạo doanh thu 4,2 tỷ USD, nộp ngân sách 155 triệu USD”…
Trên bình diện cả nước, với trên dưới 1 triệu CN đang lao động tại các KCN, KCX, chỉ riêng trong năm 2005 đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 14 tỷ USD, bằng 28% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, nộp ngân sách 650 triệu USD.
Cơ hội…
Những đóng góp trên của đội ngũ CN là rất to lớn. Và ngược lại, điều không thể phủ nhận, chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước ta cũng đã dành cho CN nhiều điều kiện thụ hưởng cũng như cơ hội phát triển, thăng tiến. Đã có nhiều lãnh đạo doanh nghiệp, lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp trưởng thành từ người thợ trực tiếp trong các nhà máy, xí nghiệp. Trước đây, thời kỳ kế hoạch hóa, CN tại bất kỳ xí nghiệp, nhà máy quốc doanh nào, trước khi nhận việc đều được bố trí chỗ ở và các điều kiện sinh hoạt đãi ngộ khác, kể cả học văn hóa, như một điều kiện bắt buộc.
Hiện nay, tại các doanh nghiệp quốc doanh sản xuất phát triển, có danh tiếng lâu năm, CN ở đó cũng được bố trí chỗ ở ổn định, có thu nhập cũng như điều kiện phát triển thuận lợi. Ông Nguyễn Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Công ty Cơ khí Giao thông Vận tải Sài Gòn (Samco), người trực tiếp quản lý hàng ngàn CN kỹ thuật, cho rằng, ngoài phát triển mạnh về số lượng, so với 20 năm trước đây, CN hiện nay có tác phong công nghiệp, tính kỷ luật cao hơn, có trình độ và khả năng tiếp thu công nghệ tiên tiến tốt… đó chính là thế mạnh và cũng là sức mạnh của họ. Và Samco đã chứng minh được điều này, đa số trong 700 CN trực tiếp của công ty đều có mức sống khá, với mức lương trung bình khoảng 3,7 triệu đồng/tháng.
Trong đó có không ít CN có mức lương lên đến 6-7 triệu đồng/tháng. Anh Phạm Văn Sơn, 37 tuổi từ Tiền Giang lên thành phố từ năm 1992. Sau hai năm sửa xe ở các garage tư nhân, đến năm 1999 được nhận vào công ty và thu nhập hiện tại của anh không dưới 6 triệu đồng/tháng. Anh Sơn cho biết với mức thu nhập như trên, cuộc sống gia đình anh là khá ổn định… Theo một số liệu thống kê, trong vòng 10 năm qua, số cán bộ quản lý trưởng thành từ CN ngày một tăng cao: có đến 33% đảng viên là CN, trong số những CN được kết nạp Đảng; có trên 15% được đề bạt lên các chức vụ quản lý và họ đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của công ty…
Tuy nhiên, theo số liệu khảo sát của PV tại một số nhà máy, KCX, KCN, thu nhập ổn định và cơ hội thăng tiến chỉ dành cho số ít CN loại 1 và loại 2 - theo cách xếp loại của ông Phạm Chánh Trực, Trưởng ban quản lý Khu công nghệ cao TPHCM: là CN “áo xanh” và “áo trắng” (“áo nâu” - chỉ CN nửa thủ công, nửa cơ giới; “áo xanh” - CN kỹ thuật trên các dây chuyền cơ giới hiện đại và “áo trắng” để chỉ đội ngũ chuyên viên, kỹ thuật viên, nhất là trong công nghiệp phần mềm, công nghệ cao…). Theo cách phân loại này, ông Vũ Quốc Huy, Vụ trưởng Vụ Quản lý KCN, KCX Bộ KH-ĐT, đưa ra con số trong số trên dưới 1 triệu CN tại các KCN, KCX của Việt Nam có khoảng 30% lao động có đào tạo tay nghề kỹ thuật, gần 10% là những CN “áo trắng” và khoảng trên 60% là lao động phổ thông”. 60% lao động phổ thông ấy cuộc sống và cơ hội của họ ra sao…?
Nguồn: SSGP
