
Tin tức
Vừa hợp tác vừa cạnh tranh (14/03)
06/08/2010 - 88 Lượt xem
Năm năm sau khi Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và bắt đầu thực hiện khu vực thương mại tự do Trung Quốc - AFTA (C-AFTA), xuất khẩu của Trung Quốc tăng mạnh, năng lực cạnh tranh được nâng cao, dự trữ ngoại tệ đã vượt 1.000 tỉ đô la Mỹ, mức cao nhất từ trước đến nay và đứng đầu thế giới.
Điều này phản ánh rõ rệt trong quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc. Biểu đồ bên dưới cho thấy đến năm 2000, quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc tương đối cân bằng, thâm hụt thương mại không đáng kể. Song từ năm 2001 cho đến nay, xuất khẩu của Trung Quốc tăng vọt và thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc đã gia tăng rất nhanh chóng.
Trong năm 2006, Tổng công ty Điện lực Việt Nam mua của Trung Quốc khoảng 1-1,5 tỉ kWh điện với giá bình quân 4,5 cent/kWh, tương đương khoảng 45-67,5 triệu đô la Mỹ. Trong năm 2007, dự kiến sản lượng điện cần mua tiếp tục tăng.
Số liệu thống kê năm 2006 của Hải quan Trung Quốc (theo Quốc tế Thương báo, Trung Quốc, ngày 31-1-2007) cho thấy mức thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tiếp tục tăng mạnh. Năm 2006, Việt Nam xuất sang Trung Quốc 2,486 tỉ đô la Mỹ, giảm 2,6% so với năm 2005, trong khi đó Trung Quốc xuất sang Việt Nam 7,465 tỉ đô la Mỹ, tăng 32,3%. Như vậy, mức thâm hụt thương mại là 4,979 tỉ đô la Mỹ, bằng 200% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. Số liệu của Hải quan Việt Nam cho thấy, Việt Nam nhập của Trung Quốc 7,391 tỉ đô la (thấp hơn số liệu của Trung Quốc 74 triệu đô la) và xuất sang Trung Quốc 3,030 tỉ đô la (cao hơn 544 triệu đô la). Đây là một chênh lệch quá lớn, rất cần được nghiên cứu và không biết có liên quan đến khai xuất khống để gian lận thuế hay không. Nếu kể cả thương mại dịch vụ, bao gồm ngân hàng, du lịch, viễn thông và mua điện thì chắc chắn mức thâm hụt này còn cao hơn con số đã được công bố.
Với việc Việt Nam chính thức là thành viên WTO từ năm 2007, với các cam kết giảm thuế các mặt hàng công nghiệp và nông sản, có thể dự báo luồng hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam còn tăng mạnh trong năm 2007 và những năm tiếp theo, nếu như Việt Nam không có đối sách thích hợp.
Nếu như thâm hụt thương mại về số lượng đặt ra những vấn đề về cân đối tài khoản vãng lai giữa hai nền kinh tế thì cơ cấu hàng xuất, nhập khẩu lại cho thấy chất lượng của trao đổi thương mại giữa hai nước ngày càng bất lợi cho phía Việt Nam (xem bảng 1 và 2).
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm thô có giá trị gia tăng thấp để các doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất. Đồng thời Việt Nam cũng nhập những sản phẩm chế tác, có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao hơn do Trung Quốc sản xuất, trong đó có không ít sản phẩm sử dụng nguyên liệu của Việt Nam như ruột, vỏ xe sử dụng nguyên liệu cao su, xăng dầu được lọc từ dầu thô, điện sử dụng than... Những nghịch lý này đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về sự phát triển kinh tế của chúng ta.
Phụ thuộc vào nguồn cung ứng của một nước có thể dẫn đến rủi ro nhất định. Nếu như Trung Quốc gặp sự cố về điện, nguồn cung ứng có thể bị giảm sút hoặc gián đoạn trong một thời gian mà bên mua ít có khả năng tác động tới việc khôi phục nguồn cung ứng.
Tình trạng thâm hụt thương mại này có thể tiếp diễn đến mức độ nào và tác động nhiều mặt như thế nào tới nền kinh tế Việt Nam (về cán cân thanh toán quốc tế, nhất là cán cân vãng lai, việc làm và thu nhập của lao động Việt Nam...). Mọi người đều biết vào WTO là chấp nhận cạnh tranh bình đẳng và cả thế giới đều rất khó cạnh tranh với hàng loạt sản phẩm có lợi thế của Trung Quốc như may mặc, da giày, hàng điện tử dân dụng... Trước đây, chúng ta đã thu được những kinh nghiệm có ích trong cạnh tranh với một số hàng hóa từ Trung Quốc như bia Vạn Lực, gốm, sứ, hàng may mặc, xe máy... Chính sức ép cạnh tranh của các sản phẩm từ Trung Quốc đã buộc các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, giảm giá thành. Sau một thời gian chao đảo, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã khôi phục được thị phần về bia, đồ sứ, xe máy, trong khi về dệt may đã có sự phân khúc thị trường rõ ràng đối với hàng dệt may Trung Quốc và hàng dệt may Việt Nam trên thị trường nước ta cũng như một số nước khác.
Có thể dự đoán rằng cuộc cạnh tranh này sắp tới sẽ ngày càng gay gắt hơn, đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách và phương án thích hợp.
Nguyên nhân sâu xa của tình hình này là do cơ cấu của hai nền kinh tế tương tự nhau nhưng Trung Quốc đã tiến xa hơn trong quá trình công nghiệp hóa và năng lực cạnh tranh của Trung Quốc cũng cao hơn Việt Nam. Bên cạnh đó, nhu cầu và những nét tương đồng về tiêu dùng, văn hóa cũng dẫn đến việc nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng mạnh. Do có nhiều sản phẩm tương tự như Việt Nam nên việc vừa hợp tác, vừa cạnh tranh trở nên một yêu cầu không tránh khỏi đối với rất nhiều sản phẩm của Việt Nam.
Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh, phải học tập các doanh nghiệp Trung Quốc, hợp tác với họ trên từng công đoạn, từng khâu chế tác, từng phân khúc thị trường. Những công đoạn nào có thể hợp tác, nên triển khai việc hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tránh việc bán nguyên liệu thô, rất kém hiệu quả. Nếu không cạnh tranh được về giá cả hàng may mặc, doanh nghiệp có thể sản xuất dòng sản phẩm có chất lượng cao hơn, hợp thời trang hơn và duy trì được thị phần ở thành thị trong nước và hướng tới thị trường xuất khẩu khác.
Đây là một bài toán khó đòi hỏi các nhà khoa học, cơ quan hoạch định chính sách, các viện nghiên cứu, trường đại học phải hợp tác nghiêm túc với doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, tiếp tục phát triển quan hệ thương mại, hai bên cùng có lợi, đồng thời từng bước hạn chế xu thế gia tăng nhanh chóng thâm hụt thương mại, thu hẹp, tiến tới cân đối thương mại song phương Việt - Trung.
Bảng 1 | ||
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam | ||
Mặt hàng |
2005 (triệu USD) |
2006 (triệu USD) |
Dầu thô |
1.160,16 |
399,91 |
Than đá |
370,17 |
594,76 |
Cao su |
519,2 |
851,38 |
Máy vi tính, sản phẩm, linh kiện điện tử |
74,56 |
73,81 |
Hạt điều |
97,36 |
94,49 |
Gỗ, sản phẩm gỗ |
60,34 |
94,07 |
Hải sản |
61,97 |
65,05 |
Rau quả |
34,94 |
24,61 |
Giày dép các loại |
28,32 |
29,70 |
Gạo |
11,96 |
12,44 |
Nguồn: Tổng cục Hải quan |
Bảng 2
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc của Việt Nam | ||
Mặt hàng |
2005 (triệu USD) |
2006 (triệu USD) |
Xăng dầu các loại |
884,336 |
555,33 |
Máy móc, thiết bị |
817,557 |
1.200,07 |
Sắt thép các loại (tấn) |
718,051 |
1.296,18 |
Vải các loại |
661,230 |
895,61 |
Nguyên, phụ liệu dệt may, |
||
da giày |
323,614 |
304,76 |
Thuốc trừ sâu |
264,257 |
118,99 |
Hóa chất |
169,886 |
203,83 |
Máy vi tính, điện tử, linh kiện |
155,385 |
243,18 |
Linh kiện, phụ tùng xe máy |
118,928 |
101,31 |
Nguyên phụ liệu dược phẩm |
101,985 |
36,14 |
Nguồn: Tổng cục Hải quan |
TS. Lê Đăng Doanh
Nguồn: TBKTSG
