
Tin tức
Hội thảo “Đơn giản hoá thủ tục hành chính: Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam” (04/04)
06/08/2010 - 102 Lượt xem
Trong hai ngày 3-4/4/2007, tại Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã diễn ra hội thảo “Đơn giản hoá thủ tục hành chính: Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam”. Hội thảo do Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với USAID và VNCI tổ chức nhằm góp phần vào chương trình cải cách hành chính nói chung và cải thiện môi trường kinh doanh nói riêng của Việt Nam năm 2007 - năm được Thủ tướng nhấn mạnh là năm Cải cách hành chính. Tham dự hội thảo có các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cùng đại diện các doanh nghiệp, sở kế hoạch và đầu tư một số tỉnh và các cơ quan hữu quan cùng giới báo chí tại Hà Nội.
Hội thảo đã nghe TS. Scott Jacobs, chuyên gia tư vấn của VNCI, trình bày về các công cụ sử dụng cho quá trình cải cách hành chính hiện đang được áp dụng rộng rãi và thành công trên thế giới, công cụ Máy xén Chính sách để tinh giản các quy định và công cụ Phân tích tác động chính sách (RIA). Ông nhấn mạnh, chúng ta đang sống trong thời đại vàng của các quy định. Thách thức hiện nay không phải là xoá bỏ quy định pháp luật mà là xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật có chất lượng. Để thực hiện được điều này, cần có sự thay đổi một cách hệ thống trong toàn bộ máy của Chính phủ, thay đổi từ tư duy trong việc ra quyết định đến cách thức thực hiện. Cải cách các nguyên tắc riêng lẻ sẽ không bao giờ theo kịp tốc độ các cơ quan chính phủ ban hành các quy định mới. Việt Nam gia nhập WTO, bên cạnh những cơ hội vô cùng to lớn, Việt Nam đồng thời phải đối mặt với những rủi ro không nhỏ. Ông lưu ý rằng, càng hội nhập các cú sốc bên ngoài càng tạo ra nhiều nguy cơ đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, nếu một nền kinh tế với thể chế cứng nhắc, kém linh hoạt sẽ khó thay đổi để thích nghi và những người nghèo, cuối cùng, là những người chịu thiệt nhiều nhất. Trên thực tế, không có mô hình thể chế lý tưởng, tuy nhiên chiến lược tồn tại cho các nền kinh tế mở đó là xây dựng một hệ thống thể chế “Chi phí và rủi ro giảm, tuân thủ theo các quy định tăng” trong khi không từ bỏ lợi ích công. Jacobs đã lấy hình ảnh cái bể bơi để hình dung ra môi trường pháp quy và đưa ra bốn nhiệm vụ của cải cách thể chế nhằm tạo ra một “bể bơi” sạch và lành mạnh cho các doanh nghiệp: (1) Làm sạch nước trong bể (các văn bản pháp quy đã ban hành), các quy định phải hướng tới tương lai; (2) Lọc sạch nước mới bổ sung vào bể (dòng pháp quy mới) ; (3) Bảo trì cơ sở hạ tầng của bể (các thể chế); và (4) Bảo đảm có người chịu trách nhiệm về việc giữ cho bể bơi luôn sạch (kiểm soát chất lượng văn bản pháp quy). Ông cũng chỉ ra một thực tế là, Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời là một bước tiến lớn trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng cùng với nó, số lượng quy định cũng như giấy phép con cũng tăng lên rất nhiều, với khoảng 40.000 trang công báo năm 2006, phải chăng Việt Nam đang trở thành một cái máy sản xuất ra các quy định. Chất lượng chính sách của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2005 theo báo cáo của World Bank 9/2006, có chiều hướng suy giảm, mặc dù cải cách tăng lên. Việc tuân thủ WTO sẽ gia tăng áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam, phát triển mạnh mẽ ngành dịch vụ, rủi ro “tụt hậu” so với khu vực và cơ hội nhanh chóng đưa Việt Nam ra khỏi nhóm các quốc gia có thu nhập thấp. Do đó, việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao và nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi cần thúc đẩy nhanh và mạnh hoạt động của khối tư nhân bằng cách đưa ra các khuyến khích về thương mại và thay đổi hành vi các doanh nghiệp. Jacobs nhấn mạnh, “Máy xén” là một công cụ hiệu quả đã được sử dụng ở các nước trong việc cải cách thể chế nhằm đạt được các quy định thông minh. Đây là một quá trình minh bạch, có trật tự, nhanh chóng và rộng khắp ở các cấp chính phủ nhằm thống kê, rà soát rất nhiều các quy định với chi phí hành chính và chính trị nhỏ nhất. Công cụ này ra đời ở Thuỵ Điển vào những năm 1980. Để sử dụng công cụ này phải có một cam kết chính trị cấp cao của chính phủ, phải áp dụng cho toàn quốc, có cơ quan trung ương, nghị định riêng cho công cụ này. Đã có những đánh giá về việc áp dụng công cụ chính sách này cho các nước đang trải qua giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, và kết quả là rất khả quan.
Bên cạnh đó, một công cụ đang được sử dụng ngày càng nhiều ở các nước phát triển cũng như đang phát triển đó là Phân tích tác động chính sách. Kỹ thuật này đã được phát triển và chứng minh trong một thời gian dài đóng góp cho quá trình cải cách thể chế. Nó giúp các nhà hoạch định chính sách loại bỏ ngay từ đầu những quy định không cần thiết, không hợp lý, giảm thiểu chi phí. Nội dung của RIA chủ yếu là thu thập thông tin phản hồi, phân tích đánh giá định tính và định lượng, và ra quyết định. Nó giúp xây dựng lòng tin, mối quan hệ giữa chính phủ và người dân, phá bỏ rào cản giữa các Bộ, ban, ngành, tạo ra một sự nhất quán chính sách. Các đại biểu đã sôi nổi thảo luận về vấn đề này, kinh nghiệm các nước cũng như thực tiễn áp dụng cho Việt Nam.
Phát biểu về các cơ hội và thách thức của quá trình cải cách thể chế của Việt Nam hiên nay, chuyên gia kinh tế, bà Phạm Chi Lan, cho rằng, định hướng thị trường đã hình thành ngày càng rõ nét trong thể chế; Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội ngày càng nhận thức, định hướng tố hơn và có năng lực cao hơn về cải cách thể chế; đây cũng là yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp để phá bỏ rào cản trong môi trường kinh doanh; và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đòi hỏi phải cách thể chế. Tất cả những điều này đã hội đủ cơ hội cho Việt Nam thực hiện quá trình cải cách của mình. Bên cạnh đó, quá trình cải cách thể chế của Việt Nam cũng phải đối mặt với nhưng thách thức, đó là cần quyết tâm chính trị, cam kết chính trị cao trong toàn bộ máy chính phủ; tư tưởng trì néo cải cách của một bộ phận do cải cách thể chế đụng chạm đến lợi ích của nhiều cá nhân, nhóm; bộ máy thể chế của Việt Nam khó chuyển đổi do hòa trộn giữa bộ máy hành chính quan liêu của Pháp, của Trung Quốc và bộ máy hành chính tập trung XHCN cũ; và nền tảng nhân lực với hệ thống giáo dục hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu cho công cuộc cải cách, chưa sẵn sàng cho cải cách mạnh mẽ về thế chế. Việt Nam cần phải cố gắng vượt qua những thách thức này, nắm bắt cơ hội để cải cách thể chế, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo sự phát triển bền vững về chất. Bà cũng nêu lên vấn đề, làm thế nào để thay đổi nhận thức tư duy về vai trò của Nhà nước, Nhà nước và thị trường, liệu có nên duy trì một cơ chế song song trong đó bên cạnh việc nhà nước rà soát, để cho doanh nghiệp tự rà soát.
Liên quan đến vấn đề này, TS Đặng Đức Đạm cho biết Cải cách hành chính bao gồm bốn nội dung: Thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ công chức và tài chính công. Về thể chế, theo ông thể chế Việt Nam vẫn nặng về pháp luật "xin-cho" thay vì pháp luật "cấm-buộc" của cơ chế thị trường, ranh giới pháp luật chưa rõ ràng, nặng về "tiền kiểm" (cấp phép), chưa chú trọng đến khâu "hậu kiểm" (thanh tra, kiểm tra). Tổ chức bộ máy của Việt Nam chưa phân vai rành mạch giữa Nhà nước - thị trường - xã hội dân sự, vãn còn mang tính "gia trưởng". Cán bộ công chức còn lạm quyền, kỷ luật hành chính chưa nghiêm, năng lực chưa đáp ứng. Bên cạnh đó, tình trạng bao cấp vẫn còn nặng nề trong khu vực tài chính công thể hiện trong việc quản lý tài sản công của các cơ quan hành chính, cấp kinh phí cho đơn vị sự nghiệp.
Về cải thiện môi trường kinh doanh, theo chuyên gia kinh tế cao cấp, TS. Lê Đăng Doanh, vấn đề đặt ra ở đây không phải là loại bỏ giấy phép mà là chất lượng của các giấy phép. Về nguyên tắc, giấy phép phải công khai, minh bạch, quy định đúng người, đúng việc. Nên chăng, giao cho các hiệp hội ấn hành giấy phép. Đã đến lúc thay đổi sang tư duy tự quản, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh và giám sát lẫn nhau. Theo ông Doanh, gia nhập WTO, người nông dân là những đối tượng đầu tiên chịu tác động. Các rào cản tiêu chuẩn kỹ thuật của WTO sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của họ. Chính phủ cần hợp tác và có các chương trình nâng cao nhận thức của người nông dân về các quy định tiêu chuẩn, chứ không nên và không thể ép buộc họ tuân thủ. Bên cạnh đó, một điểm quan trọng nữa là cần sử dụng hệ thống chính phủ điện tử một cách hài hòa, tương thích giữa các bộ, các ngành và cần cải cách bộ máy tiền lương, quy chế trách nhiệm, chế tài đối với viên chức.
Đồng tình với quan điểm của TS. Lê Đăng Doanh, TS. Đinh Văn Ân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho biết, so với các nước đang phát triển, thì con số hơn 300 giấy phép của Việt Nam không phải là con số lớn, chẳng hạn ở Mỹ số lượng giấy phép là trên 2.000, hay ở Úc là trên 3.000. Điều quan trọng là tính hợp lý của giấy phép chứ không phải ở số lượng của giấy phép. Sau khi trình bày kinh nghiệm cải cách thể chế của Úc, ông Ân kết luận, thực trạng quá nhiều quy định và kém chất lượng không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Úc mà cả các quốc gia khác. Chính vì vậy, cải cách hành chính nói chung đã trở thành một công cụ để giải quyết thực trạng nói trên, đây phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước. Cải cách thể chế không chỉ chú ý đến nội dung quy định hiện hành mà quan trọng hơn là thiết lập một bộ máy tham mưu có năng lực và một quy trình tốt, khả thi, khắc phục được yếu kém, khiếm khuyết của hệ thống các quy định hiện hành đồng thời bảo đảm chất lượng của văn bản mới ban hành. Mức độ can thiệp hợp lý phụ thuộc nhiều vào hệ tư tưởng chính sách. Tuy nhiên, ông cũng nói thêm, ở Úc, tư tưởng chính sách chủ đạo dựa trên giả thiết mọi sự can thiệp hạn chế cạnh tranh thị trường đều đem lại thiệt hại cho doanh nghiệp, người dân và xã hội. Ông cũng nhấn mạnh vai trò của cơ quan độc lập làm đầu tàu chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp quá trình cải cách thể chế của Chính phủ. Việc đánh giá, rà soát hệ thống các quy định nên giao cho cơ quan chuyên môn, độc lập thay vì từng bộ riêng lẻ. Và điều quan trọng là, cơ quan rà soát không phải là cơ quan soạn thảo hay thực thi các quy định đó. Về việc tham gia vào quá trình cải cách, ông cho rằng, cần khuyến khích các tổ chức tư vấn, hiệp hội doanh nghiệp và các hiệp hội khác tích cực chủ động tham gia, phối hợp với các cơ quan cải cách cung cấp thông tin, phản ánh ý kiến của cộng đồng do họ đại diện. Trong quá trình cải cách này, các nhà kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì cái quan trọng nhất của một văn bản pháp luật là nội dung chính sách, đặc biệt là chính sách kinh tế xã hội chứ không đơn thuần là khía cạnh pháp lý mang tính kỹ thuật. Cuối cũng, xuất phát từ thực tiễn hoạt động của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp 2005, sau khi tổ công tác rà soát các giấy phép và chuyển về các Bộ xem xét thì chỉ 3% ý kiến đồng ý bãi bỏ các giấy phép đó, ông cho rằng một mặt phải tôn trọng hoạt động cải cách của các Bộ vì hơn ai hết các Bộ hiểu rõ nhất lĩnh vực quản lý của mình. Tuy nhiên, vẫn nên có một cơ quan độc lập với những chuyên gia giỏi để rà soát hệ thống văn bản pháp quy, đảm tính bảo hiệu quả của công cuộc cải cách.
Liên quan đến Đề án 30 về "Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010", ông Nguyễn Đình Cung, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, cho biết các tiểu đề án trong Đề án chia tách và rời rạc, khó đảm bảo tính thống nhất, trong khi vấn đề thủ tục, nội dung thủ tục và văn bản thực hiện là ba nội dung gắn liền, dính kết với nhau, cần phối hợp chỉ đạo thống nhất. Việt Nam thiếu phương pháp luận và công nghệ thống nhất; thiếu cơ quan chuyên trách, độc lập đủ mạnh chỉ đạo và phối hợp triển khai thực hiện; thiếu cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định và đánh giá; vai trò của cộng đồng doanh nghiệp còn mờ nhạt. Các nhà quản lý của Việt Nam mới "nhìn về quá khứ" chứ chưa "chú trọng tương lai", nghĩa là mới chỉ tập trung đơn giản hóa hay sửa chưa nhưng khiếm khuyết về điều kiện kinh doanh hiện hành mà chưa chú ý thiết lập cơ chế, thể chế để duy trì tính bền vững của các kết quả. Ông Cung cũng hoàn toàn nhất trí với ý kiến cần phải có một cơ quan độc lập, có quyền lực, có chuyên môn để quản lý đề án này. Ban Điều hành đề án phải trung lập, nên bổ nhiệm mới người điều hành chứ không nên để các bộ trưởng kiêm nhiệm, giúp việc ban điều hành là một ban thư ký gồm những nhà khoa học có chuyên môn sâu. Bà Chi Lan cũng cho rằng Đề án nên có thêm hệ thống giám sát các cơ quan nhà nước, thay vì chỉ có nhà nước giám sát người dân.
Tiếp đó là một loạt các ý kiến phát biểu của các đại biểu xoay quanh các vấn đề vai trò của các hiệp hội, các tổ chức dân sự và người dân trong quá trình cải cách, cơ chế giám sát nhà nước, kỷ luật hành chính… Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất rằng việc kiểm soát chéo là cần thiết, không chỉ là nhà nước giám sát doanh nghiệp và người dân mà người dân và doanh nghiệp cũng cần được tạo điều kiện để giám sát nhà nước, và tự giám sát lẫn nhau. Nói như TS Lê Đăng Doanh: "Nhà nước không thể tự cải cách, đánh giá và tuyên bố thành công, phải có sự đánh giá khách quan của khách hàng, đó là doanh nghiệp và người dân". Các ý kiến đều nhất trí vai trò của xã hội dân sự là đặc biệt quan trọng để vượt qua thách thức về sức ỳ bộ máy, phải huy động được toàn xã hội tham gia, phải thống nhất được lợi ích. Một điểm nữa là, kỷ luật công chức phải thực hiện nghiêm túc hơn.
Sau hai ngày thảo luận sôi nổi, Hội thảo đã khép lại thành công với rất nhiều kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam trong công cuộc cải cách hành chính.
Nguồn: VNEP, tháng 4/2007
