Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Cổ phần hóa DNNN: Cần lấp những lỗ hổng - Bất cập trong phương án cổ phần hoá (11/04)

06/08/2010 - 86 Lượt xem

Hiệu quả CPH DNNN vừa qua chưa cao, còn thể hiện rõ trong phương án CPH của các DN. Theo số liệu tổng kết sau 15 năm thực hiện CPH thì số vốn của DNNN được CPH chỉ chiếm có 12% trong tổng số vốn nhà nước và trong số này Nhà nước vẫn nắm giữ trên dưới 40% thì thực chất số vốn nhà nước CPH đã bán ra bên ngoài chỉ chiếm một tỉ lệ vốn nhỏ khoảng 6%.

Điều này chứng tỏ lượng vốn huy động được từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước, kể cả đội ngũ CBCNV gắn bó với DN nhiều năm còn rất ít, nguyên nhân chủ yếu lại nằm ở phía chủ quan của các nhà quản lý xây dựng chính sách và DN.

Từ 2 ví dụ điển hình

Đó là phương án CPH TCty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn được Bộ Công nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với vốn điều lệ là 5.500 tỉ đồng thì phần vốn Nhà nước nắm giữ tới 80% là quá lớn và không cần thiết, còn phần bán cho CBNV và ra ngoài có 20%.

Hay theo hồ sơ bán đấu giá cổ phần lần đầu của Cty thuỷ điện Thác Mơ thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam ngày 29.3.2007 có vốn điều lệ 700 tỉ đồng thì phần vốn Nhà nước nắm giữ cũng tới 79,73%, bán ra bên ngoài 20%, còn phần bán ưu đãi cho người lao động chỉ có 0,27%.

Đây là một xu hướng không tích cực, cả bộ chủ quản lẫn DN đều muốn Nhà nước (mà thực chất là bộ và DN) nắm giữ cổ phần chi phối tới 80%. Trong khi DN rượu - bia - nước giải khát thực ra Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối, còn với khâu phát điện Nhà máy thuỷ điện Thác Mơ với công suất 150MW thì giai đoạn đầu Nhà nước cũng chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối ở mức trên 51% là được.

Hiện cả nước còn 2.176 DN 100% vốn nhà nước chưa CPH với giá trị tài sản 260 nghìn tỉ đồng (đó là giá trên sổ sách kế toán, nếu CPH áp giá mới đánh giá lại thì giá trị tài sản còn lớn hơn nhiều).

Nếu vẫn cung cách xây dựng và phê duyệt phương án CPH như trên thì rất khó đẩy nhanh tốc độ CPH DNNN và hiệu quả huy động vốn của các nhà đầu tư sẽ vẫn rất thấp.

Sửa phương án bán cổ phần lần đầu

Để khắc phục tình trạng trên cần thiết phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung một số quy định trong phương án bán cổ phần lần đầu theo hướng:

- Nên tăng số lượng cổ phần ưu đãi bán cho người lao động trong DN. Như quy định hiện nay, mức tối đa là 100 cổ phần cho mỗi năm công tác trong khu vực nhà nước, mà mệnh giá mỗi cổ phần trong cơ cấu vốn điều lệ có 10.000đ/cổ phần là rất thấp.
 
Tại sao không coi đội ngũ CBNV lao động trong DN, những người gắn bó cả cuộc đời lao động với DN, quyết định trực tiếp kết quả SXKD là một đối tượng đầu tư chiến lược? Điều này cần được các cấp thẩm quyền xem xét lại cho đúng với thực tiễn và đạo lý.

Chúng ta không thể chấp nhận một thực tế là cả một nhà máy thuỷ điện Thác Mơ có công suất khá lớn với 166 CBCNV lao động đến thời điểm CPH lại chỉ được mua cổ phần ưu đãi có 0,27% trong tổng số 700 tỉ giá trị cổ phần. Nếu bây giờ được phê duyệt tăng số lượng cổ phần mua ưu đãi lên gấp 10 lần thì tỉ lệ cũng chỉ có 2,7%.

- Với các loại hình DN và ngành nghề SXKD mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối thì trong phương án CPH lần đầu cũng không nên đặt mức quy định Nhà nước phải nắm giữ từ 51% cổ phần trở lên.

- Với các loại hình DN và ngành nghề SXKD xét thấy Nhà nước cần thiết phải nắm giữ cổ phần chi phối thì nên có mức quy định giới hạn Nhà nước nắm giữ tối đa tới 60% hay 65% vốn điều lệ.

Cần quản lý các tổ chức tư vấn

Một bất cập nữa trong CPH DNNN vừa qua làm còn hạn chế và chưa chặt chẽ, minh bạch là việc thực hiện Quy chế lựa chọn, quản lý, giám sát tổ chức tư vấn và định giá DN CPH như thế nào cho khách quan, đúng đắn.

Chúng ta mới làm được việc là Bộ Tài chính có thông tư công bố danh sách các Cty chứng khoán, DN kiểm toán được thực hiện dịch vụ định giá DN CPH, để từ đây các bộ chủ quản và cấp trên trực tiếp của DN CPH lựa chọn chỉ định tổ chức tư vấn và định giá DN CPH.

Nhưng qua thực tiễn cho thấy nhiều tổ chức tuy có chức năng định giá trong giấy phép đăng ký kinh doanh nhưng lại thiếu năng lực định giá, mà đây lại là vấn đề cơ bản ảnh hưởng lớn tới độ chuẩn xác trong tư vấn, đánh giá, tính toán giá trị DN CPH.

Chúng ta thấy trong gần 3.000 DNNN đã được CPH thuộc nhiều loại hình DN kinh tế kỹ thuật rất khác nhau, có hệ số đánh giá chất lượng kỹ thuật máy móc thiết bị công tác rất phức tạp, như điện thì có nhiệt điện, thuỷ điện, tuabin khí, truyền tải phân phối điện; còn ngành mỏ thì có khai thác mỏ lộ thiên, hầm lò; các ngành cơ khí, luyện kim, xây dựng công nghiệp và dân dụng, giao thông, thuỷ sản, điện tử, công nghiệp thực phẩm...

Muốn xác định chính xác chất lượng kỹ thuật còn lại của khối máy móc thiết bị chuyên ngành rất lớn trong từng loại hình DN trên để từ đó tính đúng giá trị DN CPH, đòi hỏi các tổ chức tư vấn và định giá DN được lựa chọn phải có các kỹ sư thiết bị chuyên ngành, nếu không rất dễ dẫn đến việc thẩm định theo cảm tính, có tính thủ tục hình thức, cơ bản dễ dàng thống nhất với DN CPH để trình cấp trên phê duyệt.

Để khắc phục tình trạng trên, việc lựa chọn tổ chức làm dịch vụ tư vấn, định giá DN CPH, nhất là với những DN có khối tài sản lớn có giá trị hàng trăm tỉ đồng trở lên và máy móc thiết bị có hệ số phức tạp cần được tiến hành tổ chức đấu thầu công khai để đảm bảo việc lựa chọn khách quan, minh bạch, đơn vị được lựa chọn thực sự có đủ năng lực định giá DN CPH.

Nguồn: Lao Động