Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Không nên nhập siêu từ châu Á (04/05)

06/08/2010 - 110 Lượt xem

Có một cảnh báo lớn từ tình hình kinh tế những tháng đầu năm nay là nhập siêu lớn và gia tăng (quý I năm nay nhập siêu 1.315 triệu USD, trong khi quý I năm trước xuất siêu 60 triệu USD; 4 tháng năm nay nhập siêu 2.262 triệu USD cao gấp 3 lần mức nhập siêu của cùng kỳ năm trước).

Nhưng nếu đi sâu vào tình hình nhập siêu, thì có một cảnh báo còn lớn hơn, đó là nhập siêu hầu như chỉ ở châu Á, nên dù ở các thị trường khác (EU, Mỹ, châu Đại Dương, châu Phi) có xuất siêu cũng không đủ bù đắp cho nhập siêu từ châu Á. Cụ thể, chỉ trong quý I, nhập siêu từ CHND Trung Hoa đã lên đến 1.134,6 triệu USD, từ Singapore là 826,3 triệu USD, từ Đài Loan là 749,7 triệu USD, từ Hàn Quốc là 653,8 triệu USD, từ Thái Lan là 400,2 triệu USD, từ Ấn Độ là 240,5 triệu USD, từ Hồng Kông là 197,6 triệu USD, từ Malaysia là 121,8 triệu USD. Chỉ với 8 quốc gia và vùng lãnh thổ này, mức nhập siêu đã lên đến 4.324,4 triệu USD, gấp gần 3,3 lần mức nhập siêu của cả nước, mặc dù xuất siêu với EU là 994,6 triệu USD, với Mỹ là 1.967,8 triệu USD, với Australia là 803,4 triệu USD,...

Cảnh báo lớn này xuất phát từ hai vấn đề chủ yếu như những nghịch lý: xuất siêu ở xa, nhưng nhập siêu ở gần; xuất siêu ở khu vực có công nghệ nguồn nhưng lại nhập siêu ở khu vực có công nghệ thấp hơn. Về nghịch lý thứ nhất xuất siêu ở xa, nhưng nhập siêu ở gần. Về nguyên tắc chung của việc trả chi phí vận chuyển, nước xuất khẩu phải tính chi phí vận chuyển đến cảng của nước nhập khẩu. Chi phí vận chuyển hiện chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng chi phí lưu thông cũng như tổng giá trị hàng xuất khẩu. Hàng xuất khẩu đưa đi thị trường càng xa thì chi phí vận chuyển càng lớn và ngược lại hàng xuất khẩu đưa đi càng gần thì chi phí vận chuyển càng nhỏ. Xuất siêu ở các thị trường xa có nghĩa là hàng xuất khẩu nhiều hơn hàng nhập khẩu. Trong khi tỷ trọng hàng xuất khẩu của Việt Nam phần nhiều là hàng nguyên liệu hàng nông lâm thủy sản thô chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế, có khối lượng nặng và cồng kềnh, nhưng giá trị thấp, chi phí vận chuyển lớn, việc vận chuyển hàng xuất khẩu đi các nước phần lớn còn phải thuê nước ngoài. Còn hàng nhập khẩu của Việt Nam từ các nước, nhất là từ các thị trường xa thường là những hàng đã tinh chế, có khối lượng nhỏ gọn hơn, có giá trị lớn hơn, có chi phí vận chuyển ít hơn. Nhập siêu ở các thị trường gần có nghĩa là hàng nhập khẩu nhiều hơn hàng xuất khẩu, trong khi chi phí vận chuyển đối với thị trường gần thường tốn ít hơn so với thị trường xa.

Về nghịch lý thứ hai xuất siêu ở khu vực có công nghệ nguồn, nhưng lại nhập siêu ở khu vực có công nghệ thấp hơn. Trước hết, cần trở lại vấn đề có nên nhập siêu hay không? Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến. Ý kiến thứ nhất cho rằng không nên nhập siêu, bởi các nước có nền kinh tế chuyển đổi, những nước đang phát triển rất cần xuất siêu và thực tế đã xuất siêu khá lớn, vừa để bảo vệ sản xuất trong nước, vừa để cải thiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ quốc tế. Trung Quốc xuất siêu tới 150 tỉ USD và dự trữ quốc tế đã lên tới trên nghìn tỉ USD, đứng đầu thế giới. Liên bang Nga xuất siêu hàng trăm tỉ USD và dự trữ quốc tế đã lên tới 277 tỉ USD, đứng thứ 3 thế giới. Trong khi các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ lại nhập siêu lớn lên đến trên 700 tỉ USD. Một phần họ không muốn sản xuất trong nước nhất là đối với những mặt hàng cần nhiều lao động vì giá nhân công trong nước cao, đối với những mặt hàng mà chi phí bảo vệ môi trường cao; phần khác họ muốn nhập siêu từ những nước đang phát triển, nơi có giá nhân công rẻ, nơi mà 1 USD có sức mua lớn gấp 4 - 5 lần sức mua tại Mỹ, lợi nhuận sẽ được thu hồi qua đầu tư, cho vay... Chính vì vậy mà mục tiêu đề ra trong kế hoạch 2006 - 2010 đưa ra là giảm nhập siêu tiến tới thăng bằng xuất nhập khẩu. Loại ý kiến thứ hai cho rằng nước ta nhập siêu là tất yếu bởi nhập siêu để đổi mới thiết bị, kỹ thuật - công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế để có nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất.

Như vậy, ngay cả ý kiến thứ hai cũng hàm ý nói đến việc nhập khẩu cần tập trung vào thiết bị, kỹ thuật - công nghệ, đương nhiên là ở khu vực có công nghệ nguồn, sau đó là nguyên nhiên vật liệu mà ở trong nước chưa sản xuất được.

Vấn đề đặt ra là tăng xuất khẩu sang châu Á để giảm nhập siêu từ châu lục này trên cơ sở nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, trên cơ sở phát triển công nghiệp phụ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa. 

Nguồn: Thanh Niên