
Tin tức
Sửa đổi chính sách cho người lao động sau cổ phần hóa như thế nào? (25/05)
06/08/2010 - 110 Lượt xem
Việc bán CP cho NLĐ trong DN hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập. Tất cả cần được tính toán lại để đạt tới mục tiêu: NLĐ trong DN CPH mới chính là "nguồn vốn" quan trọng nhất, đích thực là những "cổ đông chiến lược".
Đó là giá bán CP ưu đãi cho NLĐ trong lần phát hành lần đầu; việc xác định giá ưu đãi bằng 60% giá đấu giá bình quân CP phát hành ra công chúng có chuẩn xác? Số lượng CP được mua ưu đãi theo năm (hiện 1 năm được mua 100 CP) có còn phù hợp?
+ Xác định giá bán ưu đãi cho NLĐ trong danh sách bán cổ phần lần đầu trên cơ sở giá trị DN CPH của tất cả những tài sản mà Cty CP tiếp tục sử dụng được đánh giá lại theo nguyên tắc "Giá thị trường của tài sản tại thời điểm CPH" nhân (x) chất lượng % còn lại của tài sản tại thời điểm định giá. Sau đó, xác định tổng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DNCPH theo công thức:
Tổng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN = Tổng giá trị tài sản đang dùng đã được đánh giá lại - [Nợ thực tế phải trả + số dư quỹ khen thưởng phúc lợi + nguồn kinh phí sự nghiệp khác].
Tổng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước này chính là vốn điều lệ trong phương án bán cổ phần lần đầu đem chia (:) cho mệnh giá một cổ phần quy định thống nhất là 10.000đ sẽ ra tổng số cổ phần phát hành lần đầu, trong đó có số lượng cổ phần bán ưu đãi cho NLĐ theo quy định tương ứng với số năm làm việc thực tế cho khu vực Nhà nước.
Nếu một bộ phận NLĐ trong Cty cổ phần thực sự nghèo theo các quy định hiện hành, Nhà nước nên tiếp tục có chính sách cho phép NLĐ nghèo được trả chậm và chịu mức lãi như vay ưu đãi trong một thời gian nhất định. Đây phải được coi là một định hướng XHCN trong CPH DNNN.
+ Nên tăng mức tối đa cổ phần được mua ưu đãi cho mỗi năm công tác trong khu vực Nhà nước của NLĐ lên là 1.000 cổ phần (hiện nay là 100 CP), vì mệnh giá một cổ phần bán ưu đãi rất nhỏ chỉ có 10.000đ/CP.
Lấy ví dụ như CPH ở Nhà máy thuỷ điện Thác Mơ theo quy định hiện hành thì NLĐ đến thời điểm CPH chỉ được mua cổ phần ưu đãi có 0,27% trong tổng số 700 tỉ giá trị cổ phần, nếu tăng mức tối đa lên là 1.000 cổ phần/1 năm công tác thì tỉ lệ cũng chỉ chiếm 2,7%.
Hoặc như phương án cổ phần hoá của Cty điện lực 1 với 2 vạn NLĐ chuyển sang Cty cổ phần mà tỉ lệ cổ phần được mua ưu đãi cũng chỉ chiếm có 4,07%. Nghĩa là 2 vạn người lao động trong danh sách chỉ được mua có 271 tỉ 780 triệu đồng trong tổng số 6.675 tỉ đồng vốn điều lệ. Bình quân mỗi NLĐ được mua có 14.106.000 đồng giá trị cổ phần ưu đãi là quá ít (271,780 tỉ/19.266 NLĐ được mua cổ phần ưu đãi).
Ở đây cần lưu ý Cty điện lực 1 có tới 11 điện lực tỉnh thuộc địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa rất khó khăn trong kinh doanh bán điện, rất cần sự gắn bó của NLĐ với DN.
Một NLĐ có 20 năm công tác (lấy mức trung bình tiên tiến) thì với mức ưu đãi đề nghị điều chỉnh lại như trên có thể mua được giá trị cổ phần như sau:
20 năm x 1.000 CP/năm công tác x 10.000đ/CP = 200 triệu đồng.
Nếu NLĐ có 5 năm công tác thì được mua 50 triệu đồng cổ phần ưu đãi.
Nếu NLĐ có 10 năm công tác thì được mua 100 triệu giá trị cổ phần ưu đãi.
Đây là mức hợp lý, thể hiện rõ chính sách ưu đãi thực sự của Đảng và Nhà nước với NLĐ đã và sẽ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, là động lực phát triển doanh nghiệp bền vững trong cơ chế thị trường có định hướng XHCN.
Mặt khác, mức giá này đảm bảo trong thực tế đa số NLĐ có thể mua được để thực sự trở thành một cổ đông trong Cty cổ phần. Chỉ khi đó chúng ta mới coi việc chuyển đổi từ Cty nhà nước sang Cty cổ phần thực sự thắng lợi, đạt được mục đích về chiến lược đổi mới doanh nghiệp.
Nguồn: Lao Động
