Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Nửa năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO: Đang chờ đột phá (22/6)

06/08/2010 - 136 Lượt xem

Từ những rào cản này, ông Thành cho rằng thời gian tới, VN sẽ khó tiến triển hứng khởi nếu như không nỗ lực cải cách để hội nhập.

Ngắn hạn đã mừng - dài hạn đáng lo

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, VN đã có bước tiến đáng kể sau nửa năm gia nhập WTO. Tuy nhiên, đó chỉ là những chuyển biến mang tính cơ học chứ chưa căn bản.

Các chuyên gia phân tích: Sự phấn khích và nỗ lực của VN là rất lớn với nhiều điểm nhấn chính trị (tổ chức sự kiện lớn APEC, những bước đi để gia nhập WTO...), kinh tế (hoàn tất các cam kết về thuế, đầu tư...) và nhất là xã hội khi người dân tin rằng hội nhập mang lại những lợi ích thiết thực.

TS Thành cũng cho rằng thành công đã đến khi đầu tư nước ngoài tăng lên; nhiều mặt hàng giảm giá bán; thị trường cởi mở hơn. Đặc biệt, lãnh đạo VN đã thể hiện nỗ lực trước thế giới về một VN hội nhập, tuân thủ cam kết.

Song theo TS Thành, VN cần quan tâm nhiều hơn đến những trở ngại. TS Thành nhấn mạnh: Tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư, phát triển dịch vụ... có thể vẫn ổn định. Song, đó chỉ là bề nổi.

Điểm yếu và vấn đề VN cần tìm câu trả lời là những năm tiếp theo thì tăng trưởng, đầu tư, thị trường... có  duy trì được sự phát triển khi mà bộ máy, pháp lý, nhân lực, hạ tầng... không hề được cải thiện để thoả mãn nhu cầu?

TS Thành cho rằng năng lực hấp thụ vốn của VN đã bộc lộ hạn chế. Vì thế năm nay có thể 10 tỉ USD vào VN, nhưng năm sau 10 triệu USD cũng khó "nuốt" vì năng lực thực hiện bị giới hạn...

Song song với hạn chế này, vấn đề pháp lý và thực thi cũng phơi bày rào cản. Cụ thể, khi hàng trăm giấy phép con được dẹp bỏ thì lại có hàng chục văn bản tương tự ra đời. Điều đó vừa "tự trói tay nhau", lại vừa hạn chế năng lực hội nhập.

Đặc biệt TS Thành cho rằng, vấn đề then chốt là con người thì hầu như chưa có nhiều chuyển biến trong tư duy và hành động.
 
Ví dụ, việc hàng không muốn tăng giá vé; xăng dầu theo cơ chế mới; đề án của ngành điện... Khi đưa ra vấn đề mới, song các đơn vị này đều yếu kém năng lực giải trình. Vì thế, trong khi không có được "mô hình tốt nhất" thì "mô hình tốt hơn" để lựa chọn cũng chưa rõ ràng.

Bên cạnh đó, năng lực thực tế đang trở thành vấn đề bất cập nhất. Ví dụ, khi TTCK bung ra; các luồng vốn nhiều lên... thì năng lực giám sát không theo kịp. Đây là vấn đề nguy hiểm bởi nếu xảy ra rủi ro, sự tác động sẽ lan truyền và thường mang dấu ấn khủng hoảng.

Cần tạo động lực cho bộ máy

Theo TS Thành, động lực cho bộ máy là rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Thực tế, lương cơ bản vẫn tăng đều; nhưng động lực bằng lương theo bài bản thì không thực tế; không đánh giá được năng lực hệ thống công chức. Điều này bộc lộ khá rõ ràng trong 6 tháng qua, khi mà cạnh tranh nhân lực trở nên ngày một gay gắt.

Các nghiên cứu cho thấy nguồn nhân lực không kỹ năng thì VN hiện còn cạnh tranh; nhưng nguồn nhân lực có kỹ năng đã trở nên khan hiếm. Vì thế, một mặt tạo ra khoảng cách thu nhập; mặt khác đẩy VN vào tình thế phải sử dụng người nước ngoài.

Cũng liên quan đến bộ máy, TS Thành cho rằng các vấn đề của VN thường được xử lý theo tình huống (tham nhũng xử từng vụ; giải phóng mặt bằng theo từng khu...). Điều đó không mang tính cơ bản và không giải quyết được vấn đề.
 
TS Thành khẳng định: Điều cần chính là việc xử lý vấn đề mang tính hệ thống; vì chỉ có sửa lỗi hệ thống mới giúp VN duy trì sự đồng bộ, toàn diện và bền vững.

Cuối cùng theo TS Thành thì bộ máy của VN cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách; đổi mới tư duy và cách làm việc. Cùng với động lực và sức ép hội nhập, VN cần tận dụng thời cơ để thúc đẩy nhanh hơn quá trình tạo ra chính sách, hoạch định chính sách.

Khi có chính sách tốt, bộ máy hoạt động hiệu quả hơn; nguồn lực được huy động và sử dụng tốt hơn.

Tuy nhiên, muốn làm được điều này thì VN cần có sự quả quyết từ đội ngũ lãnh đạo. Đây cũng là động lực chính cho cả đoàn tàu VN hội nhập WTO.

Nhận định, cảnh báo

* Thâm hụt thương mại có xu hướng tăng lên do mất cân bằng XNK; xoá hàng rào bảo hộ; tỉ giá tiền tệ. Tuy nhiên, lý do cần lưu ý là nhập khẩu trang thiết bị, nguyên vật liệu thuộc nhóm FDI, đặc biệt là ở các dự án lớn tăng. Điều này có thể dẫn đến tình trạng VN tiếp tục phải nhập khẩu thay thế. Ngoài ra, hoạt động XNK ngày càng nhạy cảm với tỉ giá, vì thế cần có chính sách thận trọng.

* Cần có những nhóm rà soát. Nhóm này sẽ cân bằng các lợi ích trong xã hội để đưa ra chính sách tốt hơn. Muốn vậy, nhóm này phải có tính độc lập, được quyền tiếp cận thông tin, chuyên nghiệp và có tầm nhìn.

* Chính sách đổi mới DN đã thiên về chất lượng; hướng tới các "đại gia" với các hình thức tốt như CPH; lập tập đoàn; Cty mẹ - Cty con. Tuy nhiên, vẫn cần xoá tư tưởng của dấu ấn kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đây là cuộc đấu tranh mang màu sắc "chính trị - kinh tế" hơn là kinh tế thuần tuý. Vì thế cần sự minh bạch, tăng cường năng lực quản trị để tránh sự tư lợi không thoả đáng.

Anh Xuân
Nguồn: laodong, ngày 22/6/2007