
Tin mới
Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2007
06/08/2010 - 137 Lượt xem
KINH TẾ VIỆT
1. Tổng quan tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm
Theo số liệu mới công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 đạt 7,9%, là mức cao nhất so với cùng kỳ trong 5 năm gần đây. Kết quả này tiếp tục khẳng định xu hướng phát triển tích cực của nền kinh tế. Tuy nhiên, nền kinh tế cũng gặp phải không ít khó khăn, và để đạt được tốc độ tăng trưởng cả năm 2007 như kế hoạch đề ra là 8,2- 8,5% thì các cấp, các ngành cần nỗ lực để khắc phục những khó khăn ấy.
Cụ thể, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 16,8%; nhiều sản phẩm đạt tốc độ tăng cao hơn bình quân toàn ngành như đường, mật, bia, thuốc trừ sâu, gạch lát, thép cán, động cơ điện, máy biến thế, ô tô lắp ráp… Các địa phương đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao là Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Cần Thơ… Tuy vậy, nhiều mặt hàng nhiên liệu có xu hướng tăng như phôi thép, dầu thô, đồng, nhôm, hạt nhựa… đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động công nghiệp. Ngoài ra, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng trưởng thấp, thậm chí giảm so với cùng kỳ năm trước, như dầu thô khai thác, ga hoá lỏng, quần áo dệt kim, xe đạp lắp ráp… đã làm giảm tốc độ tăng trưởng chung của ngành công nghiệp.
Trong khi giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp 6 tháng qua tăng 3,8% (thấp hơn cùng kỳ), thì hoạt động dịch vụ lại phát triển hết sức ấn tượng. Ước thực hiện tổng mức lưu chuyển hàng hoá đạt 321,6 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất là khu vực kinh tế tư nhân (tăng 25%), khối đầu tư nước ngoài (tăng 22%)… Tính chung, trong lĩnh vực dịch vụ, giá trị tăng thêm 6 tháng đầu năm đạt 8,5%, cao hơn mức tăng bình quân chung của nền kinh tế.
Trong 6 tháng qua, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 195.000 tỷ đồng, đạt 43,2% kế hoạch năm và bằng 38,4% GDP. Mặc dù vậy, mức giải ngân nguồn vốn ODA mới chỉ bằng 41,8% kế hoạch năm, trong đó vốn vay đạt 41,3%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được kết quả nổi bật. Ước tính 6 tháng đầu năm thu hút được khoảng 6,1 tỷ USD cả vốn cấp mới và tăng thêm. Đồng thời với việc gia tăng vốn đầu tư đăng ký mới, tình hình thực hiện dự án cũng có nhiều chuyển biến tích cực.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Bộ Thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm của cả nước đã lên tới gần 22,5 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, tỷ lệ nhập siêu trong 6 tháng cũng tăng khá cao, bằng 17,1% kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu do nhập khẩu thiết bị, máy móc và nguyên vật liệu sản xuất tăng.
Ước tính trong 6 tháng đầu năm, cả nước đã giải quyết việc làm cho 84 vạn lao động, bằng 52% kế hoạch cả năm.
Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu 6 tháng đầu năm 2007 (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm 2006 (%)
GDP |
+7,9 |
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp |
+3,8 |
Giá trị sản xuất công nghiệp |
+16,8 |
Giá trị dịch vụ |
+8,5 |
Tổng kim ngạch xuất khẩu |
+19,4 |
Tổng kim ngạch nhập khẩu |
+26,9 |
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội |
+22,6 |
Khách quốc tế đến Việt |
+12,4 |
Tổng vốn đầu tư phát triển thực hiện (so với kế hoạch 2007) |
+43,2 |
Giá tiêu dùng tháng 6 năm 2007 so với tháng 12 năm 2006 |
+5,2 |
Số lao động được giải quyết việc làm (so với kế hoạch 2007) |
+52,0 |
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Một số vấn đề đáng quan tâm của kinh tế 6 tháng đầu năm
Mặc dù tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm vẫn tiếp tục xu hướng phát triển tích cực, tuy nhiên cũng nảy sinh một số vấn đề rất đáng quan tâm.
2.1. Sự chậm trễ trong việc thực hiện các dự án đầu tư
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng vốn đầu tư phát triển thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2007 đạt 195 nghìn tỷ đồng, bằng 43,2% kế hoạch năm và bằng 38,4% GDP. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước đạt 42,4 nghìn tỷ đồng, đạt 42,6% kế hoạch năm; vốn tín dụng đầu tư ước đạt 10,3 nghìn tỷ đồng, bằng 25,7% kế hoạch năm; vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước ước thực hiện 27,7 nghìn tỷ đồng, bằng 44,9% kế hoạch năm; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 34 nghìn tỷ đồng, bằng 46% kế hoạch năm; vốn đầu tư của khu vực tư nhân đạt 68 nghìn tỷ đồng, bằng 45% kế hoạch năm.
Đối với nguồn vốn ngân sách, vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện đạt 39,5 nghìn tỷ đồng, bằng 41,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên, số vốn giải ngân chỉ đạt 28,5 nghìn tỷ đồng, bằng 30% kế hoạch năm. Nếu loại trừ số giải ngân để thanh toán ứng trước, thanh toán khối lượng phát sinh năm trước, thì số vốn giải ngân cho khối lượng xây dựng cơ bản còn thấp hơn rất nhiều.
Đối với nguồn vốn ODA, mức giải ngân ước đạt 795 triệu USD, bằng 41,8% kế hoạch năm, trong đó, vốn vay khoảng 698 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt khoảng 97 triệu USD. So với tiến độ đã thoả thuận trong các hiệp định và cam kết của kế hoạch giải ngân thoả thuận với các nhà tài trợ thì tình hình giải ngân vốn ODA của các công trình xây dựng cơ bản còn thấp. Nhiều dự án đầu tư từ vốn vay ODA của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… kéo dài, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi, giao thông vận tải, điện, thoát nước, vệ sinh môi trường đô thị. Việc triển khai đầu tư xây dựng cơ bản ở các Tập đoàn, Tổng công ty lớn như Điện lực Việt Nam, Dầu khí, Bưu chính Viễn thông, Hàng không, Hàng hải… chưa đảm bảo tiến độ đề ra. Theo đánh giá của 5 Ngân hàng Phát triển (WB, ADB, JBIC, KFW và AFD), so với tiến độ được ghi trong các hiệp định xu thế giải nhân vốn ODA có chiều hướng giảm từ 16% năm 2000 xuống dưới 13% năm 2006, và có thể còn thấp hơn nữa trong năm nay.
Những nguyên nhân chính dẫn đến chậm tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu được chỉ ra là cơ chế, chính sách có phần chồng chéo, không thống nhất, chưa kịp thời; chỉ đạo điều hành của một số Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp thiếu quyết liệt; công tác quản lý, thực hiện dự án hạn chế, nhất là năng lực tư vấn, lập dự án tư vấn thiết kế yếu; công tác giải phóng mặt bằng chậm… Đây rõ ràng là một vấn đề không mới nhưng lại đang được quan tâm hàng đầu. Nếu không có biện pháp hữu hiệu khắc phục vấn đề này thì rất khó có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2007.
2.2. Lạm phát tăng cao: CPI sắp vượt qua ngưỡng 6%
Chưa có năm nào giới truyền thông và người tiêu dùng lại “bận tâm” nhiều về giá cả hàng hóa như thời gian qua. Nguyên nhân là hầu hết các mặt hàng thiết yếu đều đã tăng giá khá cao, trong số đó, có không ít mặt hàng đã tăng giá gấp rưỡi, gấp đôi so với cùng kỳ năm 2006.
Số liệu do Tổng cục Thống kê công bố ngày 25/6/2007 cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đang có một đà tăng mạnh, tiến gần tới ngưỡng mục tiêu kiềm chế dưới 6% mà một số cơ quan quản lý đưa ra hồi đầu năm. Cụ thể là, trong tháng 6, CPI đã tăng tới 0,85% so với tháng 5, gấp đôi mức thường thấy ở những tháng trước, đưa mức tăng 6 tháng đầu năm lên 5,2%, còn cách mốc 6% mục tiêu đúng bằng một đà tăng như tháng 6. Như vậy, CPI năm nay sẽ khó có thể được kiềm chế dưới mức 6%.
Có nhiều căn cứ để chứng minh cho nhận định trên. Thứ nhất, đây là năm đầu tiên Việt
Thứ hai, từ năm 2007, chúng ta bước vào thực hiện cơ chế thị trường đối với các mặt hàng sắt thép, xi măng, phân bón, giấy, than; không bù lỗ cho giá xăng, tiến tới đến cuối năm 2007 hoặc đầu năm 2008 sẽ bỏ bù lỗ giá dầu; tiếp tục thực hiện điều chỉnh giá điện… Do vậy, ngay từ ngày
Thứ ba, thời tiết diễn biến bất thường (mưa, lốc xoáy, hạn hán, tình hình sâu bệnh trên cây trồng làm sản lượng vụ Đông Xuân ở miền Bắc giảm 0,5 triệu tấn, dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng diễn biến phức tạp đã tác động đến nguồn cung thực phẩm.
Còn một nguyên nhân không kém phần quan trọng nữa là nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt
Theo dự báo, trong những tháng cuối năm 2007 giá hàng hóa sẽ còn tiếp tục tăng. Trong khi đó khả năng kiềm chế tốc độ tăng giá dưới mức 6% trong năm nay là bất khả kháng. Và như vậy, mục tiêu duy trì tốc độ tăng giá dưới tốc độ tăng trưởng sẽ khó trở thành hiện thực.
2.3. Xuất nhập khẩu: cảnh báo nhập siêu
Theo số liệu Bộ Thương mại công bố ngày 25/6 vừa qua, trong 6 tháng đầu năm 2007 đã có 6 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực vượt “mốc 1 tỷ USD” là thủy sản với 1,65 tỷ USD, dầu thô đạt giá trị 3,75 tỷ USD, cà phê: 1,2 tỷ USD, dệt may: 3,4 tỷ USD, giày dép: 1,93 tỷ USD, đồ gỗ: 1,12 tỷ USD. Xuất khẩu hàng hóa trong tháng 6 cũng tiếp tục đà tăng tốc, dấu hiệu đáng mừng nhất là kim ngạch xuất khẩu tháng cuối cùng của quý II/2007 đã đạt 4,1 tỷ USD, vượt qua mốc kỳ vọng trung bình hàng tháng của cả năm, đưa tổng kim ngạch 6 tháng đầu năm của cả nước đã lên tới gần 22,5 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Các nhóm hàng khác năm ngoái đã có tên trong “câu lạc bộ 1 tỷ USD” dù chưa về đích nhưng cũng đang có tốc độ tăng trưởng tốt là cao su, với kim ngạch xuất khẩu là 527 triệu USD; điện tử và linh kiện máy tính 935 triệu USD; đặc biệt, mặt hàng gạo đã đạt 731,5 triệu USD và hiện mặt hàng này đang gặp nhiều yếu tố thuận lợi về giá xuất khẩu và thị trường.
Xuất khẩu tăng khá là điều kiện thuận lợi để gia tăng nhập khẩu, nhất là hàng hoá tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm tăng mạnh nên đã đẩy nhập siêu lên mức đáng báo động. Theo số liệu của Bộ Thương mại, kim ngạch nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt 27,3 tỷ USD, tăng 30,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng, trong đó có những mặt hàng tăng cao hơn tốc độ tăng chung, như xe máy, sắt thép, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, hoá chất, chất dẻo, vải, sợi dệt, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, gỗ và nguyên liệu gỗ... Như vậy, nhập siêu đã lên tới 4,8 tỷ USD, tương đương với 21,3% kim ngạch xuất khẩu (vượt trội so với mức 11% của cùng kỳ năm ngoái). Nhập khẩu tăng mạnh cả ở khu vực doanh nghiệp trong nước (tăng 30,6%) và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tăng 30%). Nhưng điều đáng ngại nhất vẫn thuộc về doanh nghiệp trong nước, bởi vì trong 6 tháng xuất khẩu của khu vực này mới chỉ đạt 9,824 tỷ USD trong khi nhập khẩu lại tăng vọt tới 17.342 tỷ USD. Do vậy, tỷ lệ nhập siêu của doanh nghiệp trong nước đã chiếm tới 76,5% kim ngạch xuất khẩu, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 67,7% của cùng kỳ năm trước.
Hiện có hai luồng ý kiến khác nhau đánh giá về mức nhập siêu gia tăng. Một số ý kiến cho rằng, nhập siêu tăng chủ yếu do nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, do một số loại nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất tăng là không có gì đáng quan ngại, thậm chí là tích cực. Song luồng ý kiến thứ hai khẳng định rằng, đó là điều không tốt, cần nhanh chóng có biện pháp điều chỉnh theo hướng giảm. Tình trạng nhập siêu gia tăng là điều không thể coi thường, vì một số lý do sau đây:
Thứ nhất, nhập siêu cho thấy xuất khẩu đã chưa tận dụng được thời cơ, còn nhập khẩu lại chưa khắc phục được thách thức khi Việt
Thứ hai, nhập siêu chứng tỏ tính gia công của công nghiệp và xuất khẩu còn lớn, nên phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, thực thu và hiệu quả xuất khẩu thấp.
Thứ ba, việc phát triển công nghiệp phụ trợ, công tác nội địa hoá - một chủ trương đề ra từ lâu, nhưng chuyển biến chậm.
Thứ tư, mức nhập siêu hoàn toàn từ khu vực châu Á, là thị trường gần, không phải là công nghệ nguồn... Nhập siêu lớn nhất từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Malaysia, Philippines...
Thứ năm, nếu nhập siêu không được chặn lại trong các tháng tới thì mức nhập siêu của cả năm sẽ rất lớn, có thể lên đến khoảng 8 tỷ USD, mức kỷ lục từ trước tới nay, vượt xa mức nhập siêu 4,3 tỷ USD của năm 2005 và 5,1 tỷ USD của năm 2006. Đây là một cảnh báo rất đáng lưu ý từ tình hình xuất nhập khẩu của 6 tháng đầu năm.
2.4. Tình hình phát triển của thị trường chứng khoán
Người ta nói rằng thị trường chứng khoán là “hàn thử biểu” của nền kinh tế. Diễn biến thị trường chứng khoán Việt
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, đến cuối tháng 6 đã có 55 công ty chứng khoán, 18 công ty quản lý quỹ và 61 tổ chức lưu ký. Vốn điều lệ của các công ty này đạt khoảng 5.354 tỷ đồng, gấp 7,4 lần năm 2005. Số lượng các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán ngày càng đông đảo, đặc biệt là trong 3 tháng đầu năm 2007. Theo thống kê, hiện đang có khoảng 200.000 tài khoản chứng khoán, trong đó 4.400 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài, tăng 7 lần so với năm 2005 và 1,5 lần so với năm 2006. Kể từ đầu năm đến nay, hơn 40 doanh nghiệp đã được tổ chức đấu giá cổ phần hóa với gần 451 triệu cổ phần, trong đó có 2 tập đoàn lớn là Công ty Phân đạm và Hóa chất dầu khí và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam.
Nhìn chung, hoạt động thị trường chứng khoán chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn 1 (từ đầu năm đến giữa tháng 3) phát triển "nóng" và giai đoạn 2 (từ nửa cuối tháng 3 đến hết quý II/2007) "giảm nhiệt" và “điều chỉnh sâu” với xu hướng đi xuống của giá nhiều cổ phiếu cũng như sự dao động lên, xuống thất thường của giá cổ phiếu và VN-Index.
Tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, tính đến thời điểm hiện tại, chỉ số VN-index đạt trên 1000 điểm, giảm nhẹ so với đầu quý nhưng so với đầu năm 2007 vẫn tăng hơn 35%. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,85%/tháng. Tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, tính đến thời điểm hiện tại, chỉ số HASTC-index đạt gần 300 điểm, tăng gần 30% so với đầu năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 6 tháng đầu năm 2007 đạt 5%/tháng (trong đó tốc độ tăng trưởng bình quân của quý I đạt 24,09%/tháng).
Bộ Tài chính cho biết, nhằm giúp thị trường chứng khoán phát triển ổn định, lành mạnh, thời gian qua, Chính phủ cùng các Bộ, ban, ngành đã ban hành nhiều văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của lĩnh vực này, như: Nghị định quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Chứng khoán (ngày 17/01/2007); Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ban hành về Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán; Thông tư liên tịch về cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp kiểm soát các rủi ro trên thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ; Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN về quản lý cho vay đầu tư chứng khoán; Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN; Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN (ngày 28/5/2007)… Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành thanh tra tại các Tổ chức tín dụng về hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng và giúp thị trường chứng khoán phát triển ổn định; Bộ Tài chính cũng đã yêu cầu các Văn phòng đại diện và tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài làm thủ tục đăng ký lại với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước…
Để tránh tình trạng cung lớn hơn quá nhiều so với cầu, hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến cần phải cân nhắc kỹ lưỡng thời gian tiến hành các cuộc đấu giá cổ phiếu, đặc biệt là của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn để tránh thiệt hại do thặng dư vốn lần đầu giảm, gây ảnh hưởng đến cả quá trình cổ phần hóa của đơn vị đó.
3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế 6 tháng cuối năm
Để đạt mục tiêu tăng trưởng 8,5% trong năm nay thì tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng cuối năm phải phấn đấu đạt 9%. Để hoàn thành mục tiêu hết sức khó khăn này, các cấp, các ngành cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và quyết liệt. Dưới đây xin nêu một số giải pháp lớn, quan trọng.
3.1. Tăng cường tiến độ thực hiện các dự án đầu tư
Trước hết, các Bộ, nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng cần sớm tiến hành việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản, giải quyết những vước mắc, thống nhất các quy định pháp luật, nếu vượt quá thẩm quyền thì cần trình Chính phủ giải quyết sớm.
Để đẩy tiến độ các công trình xây dựng cơ bản cả về khối lượng thực hiện và tốc độ giải ngân các nguồn vốn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra các giải pháp và các vấn đề vướng mắc cần phải tháo gỡ trong cơ chế quản lý chung cũng như trong từng nguồn vốn như: nguồn ngân sách, ODA, trái phiếu chính phủ, công trái và nguồn tín dụng ưu đãi đầu tư.
Bên cạnh các giải pháp tăng cường kiểm tra, giám sát cải cách và hợp lý hơn nữa các thủ tục đầu tư, thì trong tháng 7, các Bộ, ngành và địa phương phải phân bổ ngay số vốn ngân sách chưa được phân bổ cho các dự án đã có đủ thủ tục đầu tư và tập trung bố trí vốn cho các dự án nhóm B, C đã triển khai nhưng chưa hoàn thành theo đúng thời hạn quy định để các dự án này có thể hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2007; các Bộ, ngành, địa phương kiên quyết không bố trí để chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị thực hiện dự án trong năm 2007 đối với các dự án chưa có quyết định đầu tư hoặc quyết định đầu tư sau ngày 31/10/2006; ngành và địa phương nào cắt giảm chi phí đầu tư so với chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao cho các nhiệm vụ, mục tiêu khác, trong tháng 7 phải điều chỉnh, cân đối theo chỉ tiêu của Thủ tướng Chính phủ đã giao.
Trên cơ sở tình hình thực hiện các công trình, dự án, nếu thấy công trình, dự án nào không có khả năng thực hiện trong năm 2007 mà đã được bố trí vốn trong kế hoạch, các Bộ, ngành, địa phương cần điều chuyển ngay cho các dự án có nhu cầu cấp thiết, trong đó ưu tiên tập trung cho các dự án ODA và các dự án thiếu vốn khác.
3.2. Kiềm chế tăng giá
Để có thể kiềm chế tốc độ tăng CPI thấp hơn mức tăng trưởng GDP trong năm 2007, trong những tháng cuối năm, các cấp, các ngành cần thực hiện các giải pháp cấp bách sau đây:
Thứ nhất, Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo sát sao, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp thực hiện quyết liệt các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tập trung mọi nỗ lực dập tắt các dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và cây trồng; chủ động phòng chống thiên tai, giảm nhẹ thiệt hại; bảo đảm giữ vững cân đối cung- cầu các mặt hàng trọng yếu.
Thứ hai, Bộ Tài chính cần thực hiện các giải pháp tài chính góp phần giảm giá, tạo sức ép cạnh tranh như các biện pháp về thuế, phí; tăng cường quản lý, giám sát hoạt động thị trường chứng khoán, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, bền vững; thực hiện kiểm soát giá thành, giá bán đối với hàng hóa, dịch vụ quan trọng; giảm bù lỗ giá dầu, thực hiện ngay bỏ bù lỗ dầu mazut trong năm 2007; thực hiện tốt việc giám sát giá bán xăng do doanh nghiệp quy định.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, thực hiện biện pháp đẩy mạnh kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán, giữ ổn định tỷ giá và các lãi suất chủ đạo.
Thứ tư, Bộ Thương mại cần chủ trì thực hiện các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu; điều hành tiến độ xuất khẩu gạo hợp lý, bảo đảm an ninh lương thực.
Thứ năm, các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố, các hiệp hội ngành hàng cùng doanh nghiệp cần soát xét chặt chẽ quy hoạch ngành hàng, thực hiện đổi mới công nghệ, thực hành tiết kiệm, tăng năng suất và chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để bình ổn thị trường.
Thứ sáu, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố cần chỉ đạo các ngành ở địa phương tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát bình ổn giá. Gắn kiểm tra niêm yết giá bán và bán đúng giá; xử lý nghiêm mọi biểu hiện lợi dụng nâng giá bán. Theo đó, sắp tới, liên ngành sẽ thành lập đoàn kiểm tra một số mặt hàng, lĩnh vực tăng giá quá nhanh như giao thông vận chuyển, thép xây dựng…
3.3. Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu
Cách thức phổ biến nhất để giảm nhập siêu là đẩy mạnh xuất khẩu. Để đẩt mạnh xuất khẩu, trong những tháng còn lại của năm 2007, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ. Trong đó, tập trung vào một số giải pháp chính gồm: tiếp tục đa dạng hóa mặt hàng thúc đẩy xuÊt khÈu tăng về lượng, chú trọng phát hiện các mặt hàng mới có tốc độ tăng trưởng cao và tiềm năng tăng trưởng lớn để tập trung đầu tư. Ðộng viên mọi thành phần kinh tế làm hàng xuÊt khÈu thông qua: hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo các nhóm chính sách thuộc hộp xanh, hộp xanh lơ và tối đa 10% đối với nhóm chính sách thuộc hộp đỏ... Ðầu tư cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuÊt khÈu như bến cảng, kho tàng... đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiÖp khi xuÊt khÈu.
Giải pháp nữa cần tính tới là giảm nhập siêu ở khu vực thị trường châu Á. Có thể thực hiện hai cách:
Thứ nhất, đó là tiết giảm nhập khẩu. Nếu sản xuất trong nước đã đáp ứng được nguồn nguyên liệu dành cho chế biến xuất khẩu, hoặc phục vụ tiêu dùng xã hội thì lúc đó việc nhập khẩu sẽ giảm. Tuy nhiên, thực tế lại chứng minh rằng, Việt
Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu để bù đắp cho nhập khẩu. Hiện nay, chúng ta chỉ có thể đẩy mạnh một số mặt hàng mà các nước châu Á cần như: than đá, dầu thô, quặng, cao su, thủy sản... mà những mặt hàng này hiện Việt
Như vậy, cả hai giải pháp trên xem ra vẫn chưa thể giải quyết được triệt để vấn đề. Nhập siêu từ khu vực thị trường châu Á có thể chưa giảm mạnh trong năm 2007 này được.
