
Tin tức
Hai mặt của lạm phát (18/07)
06/08/2010 - 133 Lượt xem
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, lạm phát là căn bệnh chung của các nước có xuất phát điểm thấp. Tuy nhiên, với VN lạm phát không hẳn là xấu.
“Thông lệ” của thế giới
Trước hết, xét trên bình diện tổng thể, thực tiễn kinh tế thế giới cho thấy, càng ở trình độ phát triển cao, tỷ lệ lạm phát càng thấp, và ngược lại, càng ở trình độ phát triển thấp, tỷ lệ lạm phát càng cao.
Cụ thể, các số liệu thống kê và dự báo của IMF cho thấy, trong giai đoạn 10 năm 1999-2008 hiện nay, nếu như tỷ lệ lạm phát bình quân (tính theo giá tiêu dùng) của các nền kinh tế phát triển chỉ là 2,0%/năm, thì của các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển là 6,2%/năm, tức là của các nền kinh tế mới nổi và các quốc gia đang phát triển cao gấp 3,1 lần so với của các nền kinh tế phát triển.
Trong đó, nếu như cư dân các nước đang phát triển Châu Á được sống trong bầu không khí giá cả dễ chịu nhất với mức tăng bình quân 3,1%/năm, còn dân cư các nước đang phát triển thuộc hai khu vực Trung Đông và Mỹ Latin đã phải sống trong bầu không khí giá cả oi ả hơn với mức tăng bình quân 6,7%/năm và 7,0%/năm. Nhân dân cùng cảnh ngộ Châu Phi phải sống trong điều kiện lạm phát “phi mã” với giá tiêu dùng tăng bình quân 10,5%/năm và khu vực Trung và Đông Âu tăng bình quân 11,2%/năm. Người tiêu dùng thuộc khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập liên tục phải sống trong cảnh “bão giá” với mức tăng bình quân kỷ lục 17,9%/năm.
Sở dĩ như vậy là do mặt bằng giá cả của các nước đang phát triển càng ở trình độ thấp thì càng thấp, trong khi của các nước phát triển càng ở trình độ cao thì càng cao, cho nên các nước đang phát triển càng mở cửa nền kinh tế mạnh để hội nhập vào đời sống kinh tế thế giới, thì việc giá tiêu dùng tăng càng mạnh để hội nhập với giá cả thế giới là điều tất yếu.
Cụ thể, các kết quả tính toán mới nhất của WB cho thấy, trong khi “rổ GNI” toàn cầu năm 2006 theo giá thực tế là 7.439 tỷ USD, nhưng nếu tính trên cơ sở đồng giá sức mua (PPP) hoặc đôla quốc tế sẽ được khuếch đại lên 10.180 tỷ đôla quốc tế, tức là tăng thêm 2.741 tỷ, hay tăng đại nhảy vọt 36,85%. Trong đó, cùng tính theo PPP, nếu như “chiếc bánh” GNI của những nước giàu đều bị “co lại” với những mức độ khác nhau, thì của những nước nghèo nói chung đều “nở ra” rất nhiều và tổng mức “nở ra” này đương nhiên lớn hơn 36,85%.
Chẳng hạn, vẫn theo các kết quả tính toán của WB trong khi GNI bình quân đầu người theo giá thực tế của quốc gia Luxembourg giàu nhất năm 2006 là 76.040 USD, còn tính theo PPP thì giảm 26,39%, cho nên chỉ còn 55.970 đôla quốc tế, hoặc cặp số liệu này của Mỹ là 44.970 USD (xếp thứ 10 thế giới) và 44.260 đôla, tức giảm 1,58% và xếp thứ 4 thế giới, tức là thăng hạng 6 bậc... nhưng ngược lại, của nước ta là 690 USD (xếp 169 thế giới) và 3.300 đô la, tức là tăng đại nhảy vọt 378,26% và đại nhảy vọt 19 bậc để xếp thứ 150 thế giới, hay của Trung Quốc là 2.010 USD (xếp thứ 129 thế giới) và 7.730 đôla, tức là cũng tăng đại nhảy vọt 284,58% và đại nhảy vọt 27 bậc để xếp thứ 102 thế giới...
Việc lạm phát tăng cao, đặc biệt là tăng cao liên tục trong ba năm rưỡi vừa qua đã đặt ra hàng loạt vấn đề đối với nền kinh tế, đặc biệt là vấn đề đời sống của đông đảo bộ phận dân cư. Nhưng cũng không thể phủ nhận một thực tế khác là nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn “thăng hoa”, đáng mừng nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. |
Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh một thực tế khác là, không phải hễ cứ ở trình độ phát triển thấp như nhau thì các quốc gia đều có mặt bằng giá cả như nhau, mà điều này còn tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Chẳng hạn, vẫn theo các kết qủa tính toán của WB, Mauritani có GNI thực tế bình quân đầu người 740 USD năm 2006 vừa qua và cao hơn chúng ta 1 bậc trong bảng xếp hạng giàu nghèo (xếp thứ 168 thế giới), nhưng nếu quy ra đôla quốc tế thì đạt 2.600 đôla, tức là tăng 251,35%, cho nên thua chúng ta 8 bậc trong bảng xếp hạng GNI bình quân đầu người tính theo PPP (xếp thứ 158 thế giới); hoặc Salomon là quốc gia có GNI bình quân đầu người theo giá thực tế 680 USD, chỉ xếp sau chúng ta 1 bậc (xếp thứ 170 thế giới), nhưng khi tính theo PPP đạt 2.170 đôla, tức là tăng 219,12% và vẫn xếp thứ 170 thế giới, cho nên tụt hạng so với chúng ta tới 20 bậc.
Những điều nói trên có nghĩa là, cho dù khác nhau, nhưng các nước nghèo nói chung đều có những “khoản dự trữ” không nhỏ để đẩy giá tiêu dùng của mình lên trong quá trình phát triển và hội nhập đời sống kinh tế thế giới và VN chúng ta cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
“Sức khỏe” của nền kinh tế vẫn tốt
Sở dĩ như vậy là do, bên cạnh những yếu tố khác, kinh tế càng phát triển nhanh chính là cái “cớ” để lạm phát tăng càng cao, bởi điều đó đồng nghĩa với cầu các loại của nền kinh tế tất yếu đều tăng mạnh, kéo theo giá tăng nhanh. Các kết quả tính toán cho thấy, tuy lạm phát của nước ta trong 3 năm sốt nóng giá cả thế giới vừa qua đã trở nên nghiêm trọng hơn trước đó rất nhiều, nhưng xét trên tổng thể, có thể khẳng định rằng, tình hình vẫn khả quan so với những nước ở trình độ phát triển tương đương nước ta, chúng ta vẫn thuộc “tốp đầu”.
Cụ thể, nếu như trong 3 năm 2001-2003, bình quân nhịp độ lạm phát của nước ta chỉ là 2,60%/năm và với nhịp độ tăng GDP 7,10%/năm, hệ số giữa lạm phát và tăng trưởng chỉ là 0,37 lần, thì 3 năm vừa qua, “bộ ba” con số này là 8,15%/năm, 8,13%/năm và 1,00 lần, còn tính chung cho cả giai đoạn 2001-2006 là 5,33%/năm, 7,62%/năm và 0,70 lần.
Với các chỉ số này, so với của 4 nước khác trên thế giới có GNI bình quân đầu người tính theo PPP năm 2005 cao hơn liền kề với nước ta gồm Nicaragoa, Ấn Độ, Georgia và Hondurad, còn của 5 nước thấp hơn liền kề là Bolivia, Campuchia, Gahna, Moldova và Pakistan (dao động trong khoảng 2.320 - 3.580 đôla quốc tế), thì chúng ta chỉ kém Campuchia với ba chỉ số này trong giai đoạn 2001-2006 với 4,83%/năm, 9,21%/năm và 0,35 lần, trong đó 3 năm 2001-2003 là 1,56%/năm, 7,50%/năm và 0,21 lần; 3 năm vừa qua là 4,83%/năm, 10,95%/năm và 0,44 lần và Ấn độ với 4,32%/năm, 6,97%/năm và 0,62 lần, còn hai giai đoạn 3 năm lần lượt là 3,97%/năm, 5,22%/năm và 0,76 lần; 4,70%/năm, 8,73%/năm và 0,54 lần.
Trong khi đó, 3 nước xếp ở cuối bảng gồm: Gahna liên tục bất ổn với lạm phát phi mã 18,57%/năm, còn nhịp độ tăng GDP chỉ đạt 5,26%/năm và hệ số cao kỷ lục 3,53 lần; Moldova cũng lạm phát phi mã 10,62%/năm (chủ yếu rơi vào 3 năm sốt nóng giá cả thế giới), GDP tăng 6,56%/năm và hệ số 1,62 lần, còn Nicaragoa lạm phát “ngấp nghé ngưỡng phi mã” trong 3 năm sốt nóng giá cả thế giới (9,3-9,6%), nhưng 3 năm trước đó tăng thấp nên bình quân chỉ là 7,22%/năm, nhưng GDP chỉ tăng 3,17%/năm, cho nên hệ số là 2,28 lần. Những kết quả tính toán nói trên cho thấy, chẳng ít thì nhiều, lạm phát của đa số các quốc gia ở trình độ phát triển tương đương nước ta đều chịu những tác động tiêu cực của sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới.
Cụ thể, trong 3 năm 2001-2003 giá nguyên liệu thế giới bình ổn, hệ số giữa lạm phát và tăng trưởng của nước ta chỉ là 0,37 lần, chỉ cao hơn của Campuchia (0,21 lần) và còn thấp hơn của Georgia (0,53 lần), nhưng trong 3 năm giá nguyên liệu thế giới bất ổn 2004 - 2006, trong khi chỉ số này của Campuchia tăng lên 0,44 lần, của Georgia tăng lên 0,95 lần, còn của nước ta tăng vọt lên 1,00 lần và chính vì sự tăng vọt này mà chúng ta bị “tụt hạng” xuống vị trí thứ ba, sau Ấn Độ.
Thực tế này chắc chắn liên quan đến độ mở của nền kinh tế ở đầu vào NK cũng như ở đầu ra XK (tính theo tỷ lệ % giữa kim ngạch xuất NK và GDP). Điều này xuất phát từ chỗ, với độ mở của nền kinh tế càng lớn, nhất là ở đầu vào NK, đặc biệt là NK nguyên liệu, quy mô NK sốt nóng giá cả thế giới vào thị trường trong nước càng lớn. Bởi lẽ, chính sốt nóng giá nguyên liệu thế giới đóng vai trò “thấu kính lồi” làm khuếch đại kim ngạch thương mại quốc tế và đẩy giá tiêu dùng tăng.
Còn trên thực tế, trong 10 quốc giá có trình độ phát triển tương đương, các chỉ số này của hai quốc gia có chỉ số lạm phát “đẹp” hơn nước ta đều rất nhỏ, trong khi của những quốc gia có chỉ số lạm phát “xấu” hơn nước ta đều ở mức cao. Đó là, trong khi độ mở của nền kinh tế ở đầu vào NK của Ấn Độ thấp kỷ lục chỉ với 19,62%, còn ở đầu ra XK chỉ với 13,53% (số liệu 2006) và cặp số liệu này của Campuchia cũng chỉ là 23,52% và 25,39% (số liệu 2005), trong khi của nước ta là 74,13% và 65,77%, chỉ thua kém kỷ lục 78,91% ở đầu vào của Moldova, nhưng độ mở ở đầu ra của quốc gia này cũng chỉ là 37,54%...
Tuy không thể phủ nhận những tác nhân thúc đẩy giá tiêu dùng tăng tiềm ẩn ngay bên trong nền kinh tế nước ta và công tác quản lý nhà nước cũng còn bất cập, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng, do phụ thuộc ngày càng nặng nề vào nguyên liệu NK, trong điều kiện giá nguyên vật liệu thế giới sốt nóng liên tục, với quy mô NK sốt nóng giá cả thế giới vào thị trường trong nước rất lớn như vậy, việc giá tiêu dùng của nước ta tăng vọt là tất yếu.
Tuy nhiên, cho dù giá tiêu dùng đã tăng đại nhảy vọt trong ba năm rưỡi vừa qua, nhưng xét trên tổng thể, nền kinh tế nước ta vẫn phát triển lành mạnh. Hoặc nói ngược lại, với những đặc thù của nền kinh tế nước ta, việc đồng thời đòi hỏi cả tăng trưởng cao lẫn lạm phát thấp là điều không thể.
Nguồn: DDDN
