Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Hậu WTO: Doanh nghiệp "xung kích trong bị động" (22/08)

06/08/2010 - 202 Lượt xem

Tham vấn DN: Hỏi nhiều, nghe ít, tiếp nhận càng ít

Ở các nước, quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định gia nhập WTO có sự tham vấn tối đa DN. Ở Việt Nam, tiếng nói của DN còn quá nhỏ bé, gần như bằng không. Các DN hầu như không được tham vấn.

Trên thương trường thế giới rộng lớn mà WTO mở ra, các DN chỉ như những người lính chạy theo tiếng kèn hiệu lệnh, không đóng vai trò quyết định. Do đó, sự thắng, thua, được, mất của DN trong cạnh tranh khốc liệt khi là thành viên WTO, không thể chỉ đổ lỗi cho DN, bà Lan nói.

Sau 12 năm hội nhập khu vực và quốc tế, chỉ 8% DN Việt Nam hiểu biết và tận dụng được cơ hội do hội nhập mang lại. Liệu sau 12 năm là thành viên WTO, tình trạng trên có tái diễn với các DN?, bà Lan đặt vấn đề.

Bà phân tích, năng lực cạnh tranh của DN phụ thuộc vào những giá trị của cổ đông và khách hàng, sức mạnh tài chính, khả năng phản ứng trong môi trường cạnh tranh, tiềm nanưg của con người và công nghệ để thay đổi chiến lược. Soi với định nghĩa ấy, khả năng phản ứng trong môi trường cạnh tranh của DN Việt Nam còn hạn chế. Và môi trường của chúng ta vẫn chưa đủ sức cạnh tranh. Môi trường ấy phụ thuộc vào nhà nước. "Không thể bảo DN hãy cạnh tranh đi khi Chính phủ không cho họ môi trường".

Lợi thế cạnh tranh của DN là khả năng tiêu thụ một cách bền vững, có lợi nhuận những sản phẩm, dịch vụ của mình, và khách hàng sẵn sàng mua sản phẩm của mình hơn của các đối thủ cạnh tranh. (Định nghĩa của Bộ thương mại Hoa Kỳ).

Tham vấn chính sách còn rất hạn chế. "Hỏi nhiều, nghe ít, tiếp nhận càng ít hơn nữa" - đó là thực tế của việc tham vấn chính sách từ DN hiện nay.

Không có "DN Thánh Gióng"

Hiện nay, 95% lượng DN Việt Nam là DN vừa và nhỏ, trong đó, số DN vừa rất ít. Ở các nước, DN nhỏ vươn dần lên DN vừa và DN lớn.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong hơn 20 năm thực hiện Đổi mới, mở cửa, hầu như không có DN lớn. "Chúng ta có Thánh Gióng trong 3 năm từ cậu bé trở thành người anh hùng khổng lồ. Nhưng trong cộng đồng DN Việt Nam, nhỏ vẫn hoàn nhỏ".

Các DN đa số mới thành lập, ít kinh nghiệm kinh doanh, thiếu và yếu về vốn, nhân lực, thiết bị - công nghệ, vật tư, quản trị DN và tiếp cận thị trường.

Chia sẻ quan điểm của bà Phạm Chi Lan, Tiến sỹ Võ Trí Thành cho rằng, thiếu DN vừa, sức lan tỏa từ các "đại gia kinh tế" xuống toàn nền kinh tế Việt Nam sẽ thấp. Các DN Việt Nam vẫn còn đi sau, bị sa vào bẫy "giá nhân công rẻ". Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam vẫn đang nằm ở vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị. Về dài hạn, việc này sẽ hạn chế sự phát triển của Việt Nam.

Bà Lan nói thêm, bên cạnh khoảng trống về quy mô, mức độ phát triển, các DN Việt Nam có tình trạng, các DN, tập đoàn lớn chỉ tìm đến, hợp tác với nhau. Các DN nhỏ chỉ có thể tìm đối tác là DN nhỏ. Các Ngân hàng lớn cũng có xu hướng tìm địa chỉ đầu tư là các DN lớn, dự án lớn. DN vừa và nhỏ của Việt Nam, vì thế, không thể lớn được. Bà Lan nói, chính khoảng trống lớn này khiến các DN sẽ lãnh đủ trong cạnh tranh, nhất là sau khi gia nhập WTO như hiện nay.

Theo báo cáo của WEF, năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam năm 2005 xếp thứ 80 trong 116 nước, trong khi mức này ở Trung Quốc là 23, Thái Lan: 43, Malaysia: 57, và Ấn Độ: 49. Trong đó, xếp hạng về chiến lược và hoạt động, DN Việt Nam đứng thứ 81, Trung Quốc: 28, Thái Lan: 46, Malaysia: 57 và Ấn Độ: 51. Xếp hạng chất lượng môi trường kinh doanh, Việt Nam đứng ở mức 77, (Trung Quốc: 19, Thái Lan: 40, Malaysia: 54 và Ấn Độ: 46.

Nguồn: VietNamNet