Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

WTO: Động lực để tăng tốc hoàn thiện thể chế. (27/08)

06/08/2010 - 128 Lượt xem

Nhu cầu cải cách, đổi mới là tự thân

- Trong chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam trên cương vị Chủ tịch Ngân hàng thế giới, ông Zoellick phát biểu: thành tựu của Việt Nam là nhờ tận dụng WTO như một đòn bẩy cho cải cách trong nước. Ý kiến của ông về đánh giá này như thế nào, đặc biệt trong vấn đề hoàn thiện chính sách, hệ thống pháp lý?

- Trước hết, phải khẳng định rằng, quá trình Đổi mới, cải cách trong nước của Việt Nam là một nhu cầu tự thân. Trong đó, nội dung quan trọng là phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách.

Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, đang trong quá trình chuyển từ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn chuyển đổi thành công, rõ ràng, Việt Nam phải có đổi mới, phải xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.

Thể chế ấy hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: quy chế - hệ thống luật pháp, chính sách; thiết chế -bộ máy, các chủ thể, tổ chức... trên thị trường; và cơ chế thực thi hệ thống luật pháp, chính sách ấy.

Nếu theo thuật ngữ bóng đá, thì thể chế bao gồm cả luật chơi, người chơi và cách chơi. Đổi mới, cải cách tức là phải tiến hành đổi mới, cải cách đồng bộ ở cả ba nội dung đó. Đấy là yêu cầu tự thân của sự phát triển đất nước.

"Chính phủ VN hiện đã sử dụng việc gia nhập WTO để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tranh thủ WTO trở thành một phần chiến lược, một phần logic của mình.

Thành công của Việt Nam là ở năng lực tranh thủ đòn bẩy của hệ thống thương mại quốc tế để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững", Chủ tịch Ngân hàng thế giới chia sẻ.

Để thực hiện các bước chuyển đổi, Việt Nam phải xác định mục tiêu: xây dựng nền kinh tế thị trường với những quy luật, nguyên tắc vận hành cần được tôn trọng đầy đủ nhưng cần đảm bảo đặc thù riêng - "định hướng Xã hội chủ nghĩa". Muốn vậy, Việt Nam buộc phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách.

Việc đổi mới, cải cách không phải do áp lực bên ngoài đem lại mà là sự thôi thúc của chính bên trong nền kinh tế Việt Nam.

Tuy nhiên, quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các cam kết quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO, chúng ta nhìn thấy sự phù hợp giữa yêu cầu của quá trình đổi mới trong nước với yêu cầu của các cam kết gia nhập WTO.

Nhìn chung, có sự gặp nhau giữa đòi hỏi, nhu cầu đổi mới, cải cách trong nước và sức ép từ bên ngoài do hội nhập mang lại.

Cam kết WTO: hệ quy chiếu về kinh tế thị trường

- Theo ông, quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam tác động như thế nào tới việc hoạch định, triển khai hệ thống luật pháp, chính sách ở Việt Nam?

- Để gia nhập WTO, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu của các nước đối tác là thành viên trong WTO. Các nước này luôn đòi hỏi, yêu cầu Việt Nam thực hiện nhanh, tích cực và chủ động hơn việc đổi mới, cải cách, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách trong nước. Vì thế, WTO có tác động thúc đẩy cải cách. WTO như một chất xúc tác, cộng hưởng với yêu cầu trong nước, tăng gia tốc cho quá trình đổi mới, cải cách. 

Tác động lớn thứ hai liên quan đến chính sách và hệ thống pháp lý là WTO giúp tạo thuận lợi cho việc thực hiện đổi mới ở Việt Nam. Đổi mới là quá trình "dò đá qua sông". Thậm chí, ngay cả khái niệm về nền kinh tế thị trường vẫn chưa được hiểu đúng và thống nhất. Quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết gia nhập WTO giúp Việt Nam, đặc biệt là những người nghiên cứu và hoạch định chính sách hiểu biết hơn về nền kinh tế thị trường. 

Những cam kết gia nhập WTO như một mức chuẩn về nền kinh tế thị trường được đông đảo cộng đồng thế giới chấp nhận. Việt Nam có thể căn cứ trên yêu cầu của các nước để soi vào. Thay vì phải tìm mò, mất thời gian, chúng ta có một hệ quy chuẩn tham chiếu.

Đồng thời, chúng ta cũng có điều kiện thuận lợi về thông tin để nghiên cứu, xem xét và học tập kinh nghiệm của các nước đi trước, đặc biệt là kinh nghiệm của Trung Quốc. Những việc này giúp định hướng cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam có nghiên cứu, đề xuất giải pháp, hướng đi sớm và phù hợp. 

Trong 6 tháng qua, tác động của WTO đối với Việt Nam chủ yếu là tích cực. Tăng trưởng tiếp tục ở mức cao, xuất khẩu được đẩy mạnh, việc đổ vỡ của một số doanh nghiệp không lớn như chúng ta đã từng lo ngại. 

Hy vọng, tác động của việc gia nhập WTO cũng tương tự như việc ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, BTA. Trước khi ký kết, chúng ta đã rất lo ngại. Tuy nhiên, sau nhiều năm, có thể đánh giá tác động rất tích cực.

- Hệ thống chính sách, pháp luật trong lĩnh vực nào chịu tác động lớn nhất của việc Việt Nam gia nhập WTO thưa ông?

- Các quy định pháp lý và chính sách trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư, kinh doanh chịu tác động rõ rệt nhất. Ví dụ, trước đây, chúng ta có nhiều luật cùng quy định hoạt động của các loại hình DN khác nhau. Điều này không phù hợp với thông lệ quốc tế, gây khó khăn, cản trở đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Để đáp ứng yêu cầu của quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã tích cực, chủ động thông qua Luật DN và Luật Đầu tư sớm hơn dự kiến. (Ban đầu, chúng ta có kế hoạch thông qua hai Luật này vào cuối năm 2006).

"Làm nhanh, mạnh nhưng cần chú trọng chất lượng" 

- Với những tác động của việc gia nhập WTO đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam hiện nay, ông có cảm thấy hài lòng?

- Tôi đánh giá cao sự tích cực của các bộ, ban, ngành, của Chính phủ và Quốc hội thời gian qua trong việc thực hiện, tạo sự thay đổi trong hệ thống chính sách sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đáp ứng tốt các cam kết quốc tế. Quốc hội đã ra Nghị quyết về vấn đề gia nhập WTO. Các bộ ngành trong Chính phủ đã có chương trình hành động và bước đầu thực hiện trên thực tế. Những tác động 6 tháng qua, sau khi chính thức là thành viên của WTO theo tôi là rất tích cực. 

Tuy nhiên, cũng còn nhiều điều phải suy nghĩ. Chất lượng của xây dựng luật pháp, chính sách còn có vấn đề. Từ khâu tổ chức, cán bộ trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật chưa có sự cải biến lớn dù Nhà nước đã có quan tâm, đầu tư.

Chúng ta làm nhanh, làm mạnh nhưng cũng phải quan tâm nhiều hơn đến chất lượng. Phải làm luật, hoạch định chính sách một cách bài bản, khoa học hơn.
Nguồn: Vietnamnet.