Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Chuyển hướng xuất khẩu theo cam kết WTO (04/09)

06/08/2010 - 110 Lượt xem

Đối với xuất khẩu hàng hóa, thực hiện các cam kết WTO sẽ đặt các nhà sản xuất Việt Nam trước những đòi hỏi phải có những điều chỉnh, thích nghi nếu muốn tận dụng cơ hội một cách thành công nhất. Nhìn lại hơn nửa năm gia nhập WTO, hoạt động xuất khẩu Việt Nam đã có những khởi sắc nhưng rõ ràng vẫn chưa có những đột biến như kỳ vọng. Và ông Trương Đình Tuyển cho rằng, chúng ta có cơ hội nhưng chúng ta chưa có sự chuẩn bị thật tốt để biến cơ hội thành lợi ích như mong muốn.

Cơ hội phía trước, thách thức cận kề

Trong phân tích về tác động gia nhập WTO thì lợi ích đầu tiên và rõ nhất thường được nhắc đến là Việt Nam sẽ nhanh chóng thu hút đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu. Phân tích về điều này, ông   Nguyễn Văn Long - Chánh văn phòng Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế cho biết, là thành viên WTO, Việt Nam có điều kiện để xuất khẩu vào thị trường 149 nước thành viên theo mức thuế được cắt giảm. Hàng hóa Việt Nam được đối xử bình đằng và không bị phân biệt. Đây là cơ sở để Việt nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng lợi thế, khai thác thêm thị trường. Điều này hết sức có ý nghĩa vì xuất khẩu hiện chiếm tới 60% GDP của cả nước.

Gia nhập WTO, môi trường kinh doanh Việt Nam sẽ dần cải thiện theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra niềm tin và sức hút cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc ngày càng có nhiều nhà sản xuất hàng đầu thế giới đến Việt Nam đầu tư cơ sở sản xuất sẽ tạo ra năng lực sản xuất mới cho Việt Nam, tăng khả năng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, gia tăng đầu tư nước ngoài sẽ giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào dây chuyền phân công sản xuất trên thế giới, cơ hội xuất khẩu mở ra và DN Việt Nam sẽ gắn chặt hơn với DN và thị trường thế giới.

Đặc biệt, gia nhập WTO, Việt Nam có địa vị bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại tàn cầu nhằm thiết lập một trật tự kinh tế công bằng trong việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho đất nước và DN. Điều này có ý nghĩa lớn, giúp DN tránh và giải quyết thuận lợi các cuộc tranh chấp thương mại theo nguyên tắc WTO, không còn bị thiệt thòi như trước đây.

Tuy nhiên, gia nhập WTO, gia nhập một cuộc chơi trên sân chung sẽ đặt Việt Nam trước sức ép cạnh tranh ngày càng lớn trên cả ba cấp độ là quốc gia, DN và sản phẩm. Đây là một thách thức rất lớn nếu nhìn vào những yếu kém nội tại và những bất cập về năng lực của nền kinh tế Việt Nam. Thậm chí dưới tác động thực hiện cam kết WTO chúng ta phải chấp nhận việc phá sản một số DN, nguy cơ bị hàng hóa nước ngoài bè bẹp ngay trên thị trường nội địa là có thể xảy ra.

Điều này đặt toàn bộ nền kinh tế Việt Nam từ chính quyền cho tới DN trước yêu cầu nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh trên nhiều góc độ. Đồng thời phải có những chính sách điều chỉnh, phân bổ nguồn lực và chiến lược phát triển một cách hợp lý nhất, tạo ra một hướng đi thích hợp nhất. Cam kết của Việt Nam là sẽ thực hiện các cam kết WTO ngay sau khi gia nhập và nhiều chuyên gia đã cảnh báo: cơ hội đến nhưng đang ở phía trước còn thách thức thì đã cận kề. Nếu không có những thay đổi thì khó mà tìm ra một lối đi thích hợp để vượt qua thách thức, nắm lấy cơ hội.

Xuất khẩu chuyển theo hướng nào?

Sau khi gia nhập WTO, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam sẽ không còn nhận được sự hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ. Mọi tính toán lợi thế so sánh phải dựa trên những cam kết WTO và chính sách định hướng lâu dài. Bên cạnh đó, cần tính đến nhu cầu và sự chuyển dịch sản xuất  giữa các khu vực trên thế giới nhằm tận dụng dòng vốn đầu tư và công nghệ để năng sức cạnh tranh cho sản phẩm.

Theo tính toán của các chuyên gia, trong thời gian tới Việt Nam cần tập trung xuất khẩu các mặt hàng công nghệ cao, có giá trị giá tăng lớn như sản phẩm điện tử. Đối với Việt Nam đây là loại sản phẩn có thể sản xuất quy mô lớn và đang thu hút nhiều nhà sản xuất hàng đầu thế giới đến đầu tư. Đồng thời tận dụng được nguồn nhân lực chi phí thấp để tạo ra lợi thế xuất khẩu. Xuất khẩu phần mềm cũng là một sản phẩm được chú ý. Tất nhiên, yêu cầu quan trọng nhất vẫn là nhân lực, đa dạng hóa sản phẩm để nhanh chóng khẳng định tên tuổi và nâng nhanh giá trị xuất khẩu.

Đối với các sản phẩn sử dụng nhiều lao động và đang làm gia công nhiều như dệt may hay da giày cần tận dụng tối đa nguồn nhân lực dồi dào và giá rẻ nhưng cũng tính tới những lợi thế cần phát triển như nâng cao tay nghề, tăng năng suất nhằm hướng tới những đơn hàng có độ tinh xảo cao, có giá trị gia tăng lớn. Phát triển thêm các hoạt động phụ trợ như thiết kế, sản xuất nguyên phụ liệu để tăng giá trị gia tăng tại Việt Nam cho mỗi sản phẩm. Đồng thời, bên cạnh các sản phẩm truyền thống cần phát triển các sản phẩm mới có tiềm năng và thị trường lớn trong tương lai.

Trong khi đó, đối với nhóm hàng nông lâm thủy sản vốn là thế mạnh của Việt Nam thì việc chuyển đổi cơ cấu chủ yếu là nâng cao hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu thô. Muốn thế, cần có chính sách để quy hoạch lại nuôi trồng với quy mô lớn và năng suất cao, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất. Đầu tư chế biến hợp tiêu chuẩn và tạo mối liên kết  giữa sản xuất - chế biến và xuất khẩu trên cả 3 nhóm nông - lâm và thủy sản.

Bên cạnh đó, xuất khẩu dịch vụ cũng cần được tính đến. Hiện tại, dịch vụ Việt Nam đang bị thua trên sân nhà, Việt Nam luôn ở thế nhập siêu dịch vụ. Tuy nhiên, Việt Nam cũng có thể bắt đầu xuất khẩu dịch vụ với hàng không, bưu chính viễn thông và nhất là du lịch và xuất khẩu lao động...

Nguồn:  VietnamNet.