
Tin tức
Sau 1.9.2008: Không còn khổ vì giấy phép con tùy tiện (12/09)
06/08/2010 - 113 Lượt xem
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 139/2007/NĐ-CP hướng dẫn Luật Doanh nghiệp (DN) với nhiều điều khoản rất quan trọng, giải quyết nhiều vướng mắc của các DN về việc đăng ký lập, chuyển đổi DN, cấp giấy phép kinh doanh. Báo Thanh Niên phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM). Tiến sĩ Cung đồng thời là Thư ký Tổ công tác thi hành Luật DN và Luật Đầu tư, thành viên ban soạn thảo của Luật DN và dự thảo Nghị định 139/NĐ-CP.
* Thưa ông, vì sao phải chờ đến 1.9.2008 thì các loại giấy phép, giấy phép "con" ban hành trái luật mới chính thức bị đặt ra "ngoài vòng pháp luật"? - TS Nguyễn Đình Cung: Trong việc rà soát hơn 40 giấy phép và các loại giấy khác, chúng tôi đều thấy nó không đủ 10 nội dung như quy định, trong đó có 2 nội dung rất quan trọng, chi phối hết các điều kiện kinh doanh là: tên loại ngành, nghề kinh doanh được liệt vào có điều kiện; tiêu chí mà DN phải đáp ứng để được cấp phép, giấy chứng nhận hoặc được quyền kinh doanh ngành, nghề đó. Phần lớn các nội dung này lại được quy định trong thông tư hoặc quyết định của các bộ. Ví dụ, trong luật quy định khi kinh doanh ngành A phải được Nhà nước cấp phép chẳng hạn, nhưng nhiều khi cái A này lại rất chung chung, nên đôi khi, tất cả những hoạt động trong lĩnh vực A cũng buộc phải cấp phép. Điều đáng nói nữa là về nội dung để cấp phép, cơ quan Nhà nước căn cứ vào những tiêu chí, tiêu chuẩn nào để cấp phép? Luật thì nói thế nhưng tiêu chí, điều kiện lại không quy định. Sau đấy đến nghị định hướng dẫn cũng lại không quy định mà thông thường lại đặt ra trong các thông tư... Cho nên, các bộ cần có sự chuẩn bị để nâng nó lên thành quy định trong các nghị định hay quyết định của Thủ tướng. * Còn số giấy phép ban hành sai luật và giấy phép con mà vừa qua Tổ công tác phát hiện, kiến nghị bãi bỏ hoặc chuyển đổi sang điều kiện kinh doanh thì sao? Cũng phải chờ đến 1.9.2008 mới bãi bỏ hoàn toàn và người dân và DN vẫn còn phải khổ, tốn kém chi phí, thời gian vì những "giấy" này?
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung
- TS Nguyễn Đình Cung: Đến thời điểm đó mà không ai làm gì cả, đương nhiên 43 giấy phép, giấy phép "con" mà Tổ công tác đã kiến nghị bãi bỏ, hoặc chuyển thành điều kiện kinh doanh sẽ đương nhiên không còn hiệu lực áp dụng. Bởi vì nó không có được một luật, pháp lệnh, nghị định nào... quy định cho phép tồn tại.
Từ thời điểm 1.9.2008, có thể nói: với cấp bộ, ngành là không thể muốn cho ai hay không cho ai điều gì, mà đó đã là quyền quy định rõ trong pháp luật: đó là luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ hoặc quyết định của Thủ tướng. Không một thông tư hay quyết định nào của cấp bộ được phép quy định về quyền kinh doanh của DN.
Cách rà soát rồi kiến nghị bãi bỏ giấy phép như vừa qua rất vất vả và hiệu quả lại không cao. Do không có những tiêu chí rõ ràng nên luôn xảy ra những tranh cãi giữa Tổ công tác và các bộ, ngành về cái giấy này phải bỏ đi hay giấy kia phải giữ lại. Bây giờ phải thay đổi, mà quy định tại Nghị định 139/CP vừa ban hành cũng mới giải quyết một cách. Cách nữa là phải đưa được những tiêu chuẩn về điều kiện kinh doanh vào Luật về cấp phép hành chính (đang chuẩn bị xây dựng). Cách thứ 2 là ban hành một nghị định riêng về điều kiện kinh doanh. Trong nghị định này đặt ra các tiêu chuẩn về nội dung, hình thức về điều kiện kinh doanh. Tất cả những văn bản, giấy tờ nào không đáp ứng tiêu chuẩn này sẽ không có hiệu lực thi hành.
* Về quyền quyết định thành lập DN, vừa qua cũng có nhiều ý kiến, nhất là của nhà đầu tư nước ngoài, cho rằng quy định hiện nay chưa rõ ràng gây khó khăn cho việc đăng ký kinh doanh? Nghị định 139/NĐ-CP có giải quyết được vướng mắc đó không?
- TS Nguyễn Đình Cung: Nghị định lần này cũng có một điều khoản (điều 9) hướng dẫn chi tiết về quyền thành lập DN. Đáng chú ý nhất là quy định trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài lần đầu tiên đầu tư thành lập DN tại Việt Nam, nếu DN dự định thành lập có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hơn 49% vốn điều lệ thì phải có dự án đầu tư và thực hiện đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư. Còn nếu DN dự định thành lập có sở hữu của nhà đầu tư không quá 49% vốn điều lệ thì việc thành lập DN thực hiện theo Luật DN và Nghị định số 88/2006 hướng dẫn về điều kiện kinh doanh. Việc đăng ký đầu tư trong trường hợp này áp dụng quy định tương ứng với dự án đầu tư trong nước. Điều này rất quan trọng. Nó giải tỏa được rất nhiều vì trước đây có quan niệm đã là DN có vốn đầu tư nước ngoài thì dù là có một đồng vốn của nước ngoài cũng phải có dự án đầu tư, dự án đó phải được thẩm tra và đăng ký. Nhưng quy định như trên đã tạo ra sự thuận lợi lớn cho nhà đầu tư nước ngoài góp vốn với các đối tác của Việt Nam thành lập DN.
Cái mở lớn nữa là cho việc góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào DN trong nước. Trong quá trình soạn thảo các luật cũng như nghị định này, có nhiều ý kiến cho rằng, nhà đầu tư góp vốn mua cổ phần tại DN Việt Nam cũng phải có dự án đầu tư, phải đăng ký, thẩm tra... nhưng với điều khoản trên thì nhà đầu tư có thể đăng ký theo Luật DN, rất thuận lợi. Đối với công ty TNHH, chỉ cần phải làm thủ tục thay đổi thành viên; đối với công ty cổ phần thì đăng ký thay đổi cổ đông.
Nguồn: Thanh Niên
