
Tin tức
Đừng bỏ qua “rổ thực phẩm” (03/10)
06/08/2010 - 127 Lượt xem
Trước hết, câu chuyện lạm phát ở nước ta bắt đầu rộ lên từ năm 2004, khi giá tiêu dùng đột ngột tăng tốc và kéo dài cho đến nay. Trên thực tế, đây cũng chính là thời điểm cơn sốt nóng giá nguyên liệu thế giới bùng phát và cũng kéo dài cho đến nay.
“Thủ phạm chính”: Sốt nóng giá nguyên liệu
Đặc thù của nền kinh tế nước ta là “sống nhờ” vào nguồn nguyên liệu NK, cho nên quy mô NK sốt nóng giá cả thế giới vào thị trường trong nước ngày càng tăng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường trong nước. Trước hết, chỉ xét từ năm 2000 trở lại đây, các số liệu thống kê của IMF cho thấy, sau hai năm biến động theo xu thế giảm, chỉ số giá nguyên liệu thế giới năm 2003 bắt đầu tăng mạnh (trên 13%) và liên tục trong 3 năm 2004 - 2006 đạt tốc độ tăng cao ngất ngưởng trong khoảng 20 - 30%. Còn trong 8 tháng đầu năm nay, tuy bình quân giá nguyên liệu thế giới chỉ tăng 3,62%, nhưng điều đáng ngại nhất đối với nền kinh tế nước ta là giá nguyên liệu phi dầu mỏ vẫn tiếp tục tăng “phi mã”.
Bên cạnh đó, trong 4 năm đầu giá nguyên liệu phi dầu mỏ cũng dao động trong biên độ hẹp (75,5-82,1 điểm) và năm 2004 tăng đại nhảy vọt 18,51%; năm 2005 cũng tăng rất mạnh 10,28%; còn năm 2006 lại một lần nữa tăng đại nhảy vọt với kỷ lục 28,42%. Thế nhưng, điểm khác biệt cơ bản của nhóm hàng này so với nhóm hàng năng lượng là tốc độ tăng bình quân 8 tháng đầu năm nay vẫn còn rất mạnh với 17,59%. Đây chính là yếu tố tác động rất mạnh đến thị trường trong nước hiện nay. Bởi lẽ, trong “rổ hàng hoá nguyên liệu NK” của nước ta, kim ngạch NK các nguyên liệu phi dầu mỏ hiện lớn gấp khoảng 2,5 lần so với các sản phẩm xăng dầu.
Hiển nhiên, với quy mô hàng hoá NK hiện bằng khoảng 75% GDP, trong đó riêng nguyên liệu đã bằng khoảng 52-53% GDP, cho nên quy mô “NK sốt nóng giá nguyên liệu thế giới” vào thị trường trong nước là cực kỳ lớn. Do vậy, việc so sánh với những quốc gia tuy NK lớn hơn nước ta hàng chục lần, nhưng “thua” chúng ta rất xa ở các chỉ số này đều là sự so sánh khập khiễng.
Giải pháp giảm mạnh thuế suất NK của Chính phủ là hoàn toàn đúng đắn, bởi nó giúp các DN hạn chế tăng chi phí đầu vào NK. Tuy nhiên, để có thể thành công trong việc kiềm chế giá cả thị trường, vấn đề đặt ra lúc này là phải có những giải pháp thiết thực hỗ trợ nông dân đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng thực phẩm nhằm lấp đầy “lỗ hổng” do thiên tai và dịch bệnh liên miên tạo ra. Đây là điều đặc biệt quan trọng ở thời điểm này, bởi “mùa tiêu dùng thực phẩm” đã rất cận kề. |
Các kết quả tính toán từ các số liệu thống kê về hàng hoá NK của nước ta cũng cho thấy rất rõ những tác động rất lớn của sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới.
Cụ thể, trong tổng mức tăng NK 12 loại nguyên liệu chủ yếu năm 2004 là 3,277 tỷ USD và 48,75%, thì chỉ có vỏn vẹn 823 triệu USD và 12,24% là do tăng khối lượng, còn lại 2,454 tỷ USD và 36,51% là do sốt nóng giá cả thế giới khuếch đại lên. Còn 3 cặp số liệu này 8 tháng đầu năm nay là 2,308 tỷ USD và 23,12%, trong đó, tuy kim ngạch và tỷ lệ tăng NK do khối lượng tăng cao nhất, nhưng cũng chỉ là 1,031 tỷ USD và 10,33%, còn lại 1,276 tỷ USD và 12,79% là do sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới.
Rõ ràng, trong điều kiện NK sốt nóng giá cả thế giới liên tục tính bằng nhiều tỷ USD và áp đảo so với tăng khối lượng NK và với một nền kinh tế quy mô hiện còn quá nhỏ như vậy, nếu giá tiêu dùng không liên tục tăng cao ngất ngưởng từ năm 2004 đến nay thì đương nhiên sẽ có hàng loạt DN, thậm chí nhiều ngành hoặc phân ngành sản xuất... “sập tiệm”. Đó chính là biểu hiện của sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới đối với lạm phát cao ở nước ta.
Thuế NK cao: “Kẻ đồng phạm”
Bên cạnh sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới, thuế suất NK cao cũng là một tác nhân góp phần không nhỏ. Trước hết, phải khẳng định rằng, khác với những nước ở trình độ phát triển cao hơn, thuế NK vẫn còn giữ vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Việc rộ lên những quan ngại khi chúng ta phải cắt giảm thuế suất NK bình quân từ 17,4% xuống còn 13,4% theo lộ trình trung bình từ 3 đến 5 năm khi đất nước đứng trước ngưỡng cửa WTO đủ cho thấy điều đó. Thế nhưng, ở mặt trái của nó, thuế suất NK càng cao càng làm khuyếch đại sốt nóng giá nguyên liệu thế giới ở thị trường trong nước. Đó là, hiển nhiên giá nguyên liệu NK vào thị trường trong nước trong 3 năm “tiền WTO” vừa qua không thể chỉ tăng đại nhảy vọt như tốc độ tăng 26,57%; 29,17% và 21,92% trên thị trường thế giới, mà tốc độ tăng này lần lượt phải là 30,72%; 34,24% và 25,73%, bởi các DN phải thực hiện nghĩa vụ thuế bằng 17,4% giá hàng NK. Tiếp theo, trong 7 tháng đầu năm nay, giả định là thuế suất NK bình quân được cắt giảm xuống còn 16,4%, thay vì tăng 4,25% (tăng 3,62% do giá thế giới tăng cộng với phần tăng do thuế suất ở mức 17,4%), giá NK nguyên liệu vào thị trường trong nước còn tăng 4,21% do thuế suất đã được cắt giảm xuống còn 16,4%. Trong đó, đối với nhóm hàng nguyên liệu phi dầu mỏ mà giá thế giới vẫn tăng cao ngất ngưởng 17,59%, thay vì tăng 20,65%, giá NK các nguyên liệu này vào thị trường trong nước còn tăng 20,47%.
Rõ ràng, việc giảm thuế suất NK theo lộ trình gia nhập WTO đã không giúp các DN giảm bớt được gánh nặng do giá nguyên liệu thế giới sốt nóng. Chính vì vậy, chỉ có giảm mạnh thuế suất NK như đã áp dụng kể từ đầu tháng 8 vừa qua mới có tác dụng đáng kể. Giả định thuế suất NK bình quân giảm từ 16,4% xuống còn 12,1% (giảm 25%), đối với các loại nguyên liệu phi dầu mỏ, thay vì tăng 20,47% như nói trên, mức tăng giá trị NK các nguyên liệu này vào thị trường trong nước sẽ còn 19,72%.
Tuy nhiên, con số tăng 19,72% cũng đủ cho thấy, thu ngân sách nhà nước từ thuế NK sẽ không giảm đáng kể so với trường hợp giá nguyên liệu NK bình ổn. Bởi lẽ, trong trường hợp giá nguyên liệu thế giới bình ổn, 16,4% của mỗi 10 tỷ USD hàng hoá NK sẽ là 1,64 tỷ USD, còn 10 tỷ USD này bị sốt nóng khuếch đại lên thêm lên 17,59% thành 11,759 tỷ USD, thì khoản thuế đánh vào số hàng hoá này vẫn còn là 1,423 tỷ USD, tức là chỉ giảm trên 13% so với trường hợp giá bình ổn với thuế suất cao ngất 16,4% và khoản thất thu này hoàn toàn có thể được bù đắp bởi khối lượng NK tăng.
“Lỗ hổng” trên thị trường thực phẩm
Trong khi giải pháp giảm mạnh thuế suất đối với một loạt nhóm hàng NK và việc quyết định giảm giá xăng dầu đã giúp kiềm chế giá của một loạt nhóm hàng hoá và dịch vụ chỉ tăng thấp và do vậy, đã góp phần kiềm chế không để giá tiêu dùng tăng cao hơn, nhưng các giải pháp này đã không thể giúp kiềm chế tốc độ tăng giá của nhóm hàng hàng ăn và dịch vụ ăn uống, cho nên đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến giá tiêu dùng tháng 9 tăng quá cao so với dự báo.
Cụ thể, các số liệu thống kê về giá của các nhóm hàng trong tháng 9 cho thấy rằng, trong khi giá tiêu dùng nói chung tăng 0,51% thì giá của nhóm hàng hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng “phi mã” 1,02%. Trong đó, riêng mặt hàng lương thực chiếm 9,86% trong “rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội” cũng chỉ tăng 0,85%, còn mặt hàng thực phẩm chiếm tỷ trọng cao nhất trong “rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng” này với 32,99% đã tăng đại nhảy vọt 1,26%. Điều đó có nghĩa, nhóm hàng lương thực, thực phẩm lại vẫn “miễn dịch” trước giải pháp giảm thuế NK này.
Thực tế này bắt nguồn từ ba nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, một mặt, là một quốc gia XK nông sản thực phẩm trên quy mô lớn, cho nên giá các mặt hàng này ở thị trường trong nước còn thấp, và mặt khác, do đại đa số dân cư nước ta còn nghèo, cho nên các nông sản thực phẩm NK nằm ngoài “tầm với” của họ. Bên cạnh đó, cũng phải nói rằng, thời gian qua cũng chính là lúc giá của hàng loạt nông sản thực phẩm thế giới đang ở mức cao kỷ lục, cho nên không dễ dàng có chỗ đứng ở thị trường nước ta.
- Thứ hai, trong khi dịch cúm gia cầm trong nhiều năm liên tiếp khiến cho đàn gia cầm của nước ta chưa kịp phục hồi, thì dịch bệnh liên tục trên diện rộng xuất hiện ở đàn gia súc vừa qua càng làm cho “lỗ hổng” trên thị trường thực phẩm bị khoét rộng thêm. Việc có tới 5 trong tổng số 8 vùng đều có tình trạng giá thực phẩm tăng trên 1% và 1 vùng tăng xấp xỉ 1% trong tháng 9 đủ nói lên điều đó.
- Thứ ba, trong khi đó, việc giá của nhóm hàng lương thực tăng cao lại bắt nguồn từ những nguyên nhân khác. Việc giá của nhóm hàng này vẫn tiếp tục tăng khá mạnh như vậy chỉ có thể là do thị trường lúa gạo trong nước và thế giới giống như những “chiếc bình thông nhau”, cho nên sốt nóng giá gạo thế giới đã kích thị trường lúa gạo nước ta nóng theo. Mặt khác, việc giá lương thực tăng cao còn bắt nguồn từ việc giá của một loạt loại đầu vào của mặt hàng này như phân bón, thuốc trừ sâu, giống... đều đã tăng cao. Cuối cùng, giá lương thực tăng cao cũng là nguyên nhân đẩy giá nông sản thực phẩm tăng cao.
Nguồn: Diễn đàn Doanh nghiệp
