
Tin tức
Nâng cao năng lực cạnh tranh của Logistics Việt Nam hậu WTO: Bắt đầu từ đâu? (11/10)
06/08/2010 - 163 Lượt xem
Manh mún và nhỏ lẻ...
Khái niệm Logistics (chuỗi dịch vụ giao nhận kho vận từ làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, lưu kho bãi…) xuất hiện ở Việt Nam chưa lâu, chỉ từ khi nền kinh tế hàng hóa ra đời, đặc biệt khi trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới phát triển. Tại cuộc hội thảo nhằm nâng cao sức cạnh tranh dịch vụ Logistics trong vận tải biển (diễn ra ngày 18-4-2007) ông Mai Văn Phúc, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) đã đưa ra con số chi phí cho Logistics của Việt Nam hàng năm khoảng 8 - 12 tỷ USD, ước chiếm khoảng 15% - 20% GDP của Việt Nam năm 2006, trong đó chi phí cho ngành vận tải khoảng 60% với đa phần là vận tải biển.
![]() |
Bốc xếp, lưu kho bãi... một khâu trong chuỗi Logistics đang được các doanh nghiệp Việt Nam phấn đấu giành thị phần ngay trên sân nhà. |
Theo ông Bùi Văn Trung, Phó Tổng giám đốc Vinalines, cả nước hiện có khoảng từ 600 - 800 doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này, nhưng đa phần là nhỏ và rất nhỏ nên hạn chế về vốn, nguồn nhân lực, công nghệ.
Hiện các doanh nghiệp Việt Nam không kết nối được với mạng lưới toàn cầu và chỉ dừng lại ở nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các đối tác nước ngoài có mạng điều hành toàn cầu, tức là chỉ làm một phần công việc trong chuỗi dịch vụ này như kê khai thủ tục hải quan, thuê kho bãi… “Hiện Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào đủ sức để tổ chức, điều hành toàn bộ quy trình hoạt động Logistics…” ông Trung khẳng định. Cùng quan điểm trên, ông Hà Cẩm Khải, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải (VISABA) bức xúc: “Chúng ta đang có một lượng lớn các doanh nghiệp nhưng quy mô nhỏ và rất nhỏ.
Thay vì liên kết, hợp tác thì các doanh nghiệp Việt Nam lại cạnh tranh không lành mạnh, làm ăn chụp giựt, phá giá… trong khi chất lượng chưa cao thì lại tự làm yếu nhau và làm yếu chính mình…”. Do vốn ít nên tổ chức doanh nghiệp đơn giản, không chuyên sâu, không có văn phòng đại diện ở các nước khác, nên không có thông tin, công việc phải giải quyết thông qua các đại lý của các công ty nước ngoài…
Khi đã gia nhập WTO, các chế định của nhà nước luôn công bằng cho cả doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Chính vì vậy, vai trò của các hiệp hội lúc này cực kỳ quan trọng. Hiện nay, mặc dù chúng ta có đủ các hiệp hội từ Hiệp hội Cảng biển, Hiệp hội Đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội các chủ tàu, Hiệp hội Giao nhận kho vận… nhưng vai trò của các hiệp hội này vẫn chưa thực sự phát huy. Hoạt động Logistics chuyên nghiệp đòi hỏi phải tích hợp được việc cung ứng nguyên vật liệu, sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, phân phối với hàng loạt các dịch vụ vận tải, giao nhận… do đó rất cần tiếng nói chung, sự liên minh giữa các hiệp hội, các doanh nghiệp.
Cần một “hành lang” để phát triển
Tuy đã gia nhập WTO được gần 1 năm, và mặc dù đã có nhiều đại gia trên thế giới trong lĩnh vực này nhảy vào Việt Nam, nhưng theo các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, sau 5 - 7 năm dịch vụ vận tải, giao nhận, kho bãi… mới có thể thiết lập công ty 100% vốn nước ngoài. Do đó còn đủ thời gian để các doanh nghiệp trong nước liên kết giành lại thị phần trong lĩnh vực này.
Một “hành lang” bao gồm các quy định pháp luật cụ thể và rõ ràng, sự quan tâm của nhà nước trong đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo… là những điều kiện quan trọng để thúc đẩy ngành Logistics Việt Nam phát triển. Về hành lang pháp lý, thực ra Logistics mới chỉ được công nhận là một hành vi thương mại trong Luật Thương mại sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-1-2006. Tháng 9-2007 vừa qua, Chính phủ mới ban hành Nghị định 140 “Quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics”, nhưng theo những người am hiểu về lĩnh vực này thì Nghị định 140 còn sơ sài đối với một lĩnh vực mang lại lợi nhuận khổng lồ như Logistics.
Về nhân lực, một chuyên gia trong lĩnh vực này phân tích “Các doanh nghiệp trong nước đang sử dụng khoảng 4.000 - 6.000 nhân viên, nhưng rất thiếu những người được đào tạo chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và hiểu biết luật pháp quốc tế…”. Hiện Việt Nam chưa có trường lớp chuyên đào tạo lĩnh vực này, sinh viên các trường giao thông vận tải, hàng hải, ngoại thương chỉ được học khoảng 15 - 20 tiết có liên quan đến Logistics. Chỉ có một số rất ít tự đi du học tại các nước có đào tạo chuyên ngành này…
Tóm lại, để dịch vụ Logistics Việt Nam nắm bắt được cơ hội trước ngưỡng cửa WTO, theo ông Nguyễn Hùng, Phó Giám đốc Công ty Kho vận miền Nam (Sotrans) Việt Nam: Nhà nước cần đầu tư hợp lý cho các cảng, sân bay, cảng thông quan nội địa (ICD), đường bộ, đường sắt, đường sông, kho bãi, trang thiết bị, ngân hàng, bảo hiểm... theo một kế hoạch tổng thể, có khả năng tương tác và hỗ trợ qua lại lẫn nhau một cách hiệu quả, chú trọng đầu tư xây dựng cảng nước sâu trung chuyển khu vực. Cạnh đó, phải chuẩn hóa các quy trình dịch vụ logistics, thống kê logistics; xây dựng khung pháp lý mở và chọn lọc, đảm bảo tính nhất quán, thông thoáng và hợp lý trong các văn bản, quy định liên quan đến lĩnh vực logistics, với mục đích tạo cơ sở cho một thị trường logistics minh bạch; đẩy mạnh công tác đào tạo logistics tại các trường cao đẳng, đại học, trên đại học.
Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) cần năng động hơn trong việc quản lý bảo vệ quyền lợi hội viên, đặc biệt là trong việc đào tạo, gắn kết, thông tin, điều phối, hướng dẫn các thành viên tiếp cận và xâm nhập các thị trường nước ngoài. Cải tiến quy trình thủ tục hải quan - xuất nhập khẩu… Đặc biệt, các đơn vị trong ngành cần xem xét khả năng sáp nhập và thành lập các đơn vị cung ứng dịch vụ logistics theo nhóm 3 - 4 đơn vị để đủ sức cạnh tranh với các công ty đa quốc gia”.
Nguồn: Vietnamnet
