Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Nhập siêu: Nhiều nỗi lo! (19/10)

06/08/2010 - 109 Lượt xem

Lý lẽ của quan điểm này, nói một cách ngắn gọn là nhập siêu hiện nay là để phát triển sản xuất, để tăng cường XK những mặt hàng mới, sản phẩm công nghiệp, công nghệ cao, cho nên phải có thời gian, phải chịu khó... chờ, cho nên cần nhìn nhập siêu với con mắt tích cực. E rằng cách nhìn nhận như vậy không thoả đáng!

Liên tục vỡ kế hoạch nhập siêu

Trước hết, ở thời điểm “trước thềm WTO”, xuất phát từ lập luận rằng, gia nhập WTO sẽ có cả thị trường thế giới để phát triển, một quan điểm cho rằng chúng ta sẽ hướng tới mục tiêu XK 100 tỷ USD hàng hoá vào cuối thập kỷ này, tức là XK trong 4 năm “sau khi gia nhập WTO” sẽ đại nhảy vọt với nhịp độ bình quân gần 25,9%/năm.

Hiển nhiên, đó chỉ là một ý kiến cá nhân, bởi mục tiêu mà các nhà hoạch định chiến lược XNK đưa ra chỉ là 72,547 tỷ USD, tức là trong nửa cuối thập kỷ hiện nay chỉ phát triển với nhịp độ bình quân 17,5%/năm.

Tuy không được biết dự báo về NK sẽ phát triển như thế nào khi XK đại nhảy vọt như vậy, nhưng song hành với nhịp độ tăng XK bình quân 17,5%/năm của các nhà hoạch định chiến lược, NK sẽ chỉ tăng 14,7%/năm và với nhịp độ tăng này, kim ngạch NK hàng hoá trong năm nay sẽ chỉ là 48,5 tỷ USD và nhập siêu cũng chỉ vỏn vẹn 188 tỷ USD, còn NK năm 2010 cũng chỉ là 72 tỷ USD và chúng ta sẽ kết thúc được “vấn nạn” nhập siêu trước khi bước sang thập kỷ mới.

Thế nhưng, ngay tại thời điểm này, có thể khẳng định chắc chắn rằng, các mục tiêu NK và nhập siêu đã “đổ”. Nếu nhìn ngược lại dòng lịch sử, càng dễ dàng nhận thấy rằng, “nhập siêu” vốn là “căn bệnh kinh niên” của nền kinh tế và những mục tiêu về kiềm chế NK để hạn chế nhập siêu và sớm chuyển sang xuất siêu đều tỏ ra duy ý chí.

Cụ thể, trong cả chặng đường hơn hai thập kỷ đổi mới đã qua, duy nhất chỉ có năm 1992 xuất siêu vỏn vẹn 40 triệu USD và 1,55%, còn lại là 20 năm nhập siêu. Trong đó, tỷ lệ nhập siêu bình quân giai đoạn 1986-1990 đạt kỷ lục 80,40%; giai đoạn 1991-1995 là 32,80%; giai đoạn 1996-2000 là 18,73%; giai đoạn 2001-2005 là 17,38% và năm 2006 vừa qua cũng đạt 12,72%.

Trong khi đó, chỉ tính từ năm 2001 đến nay, khi hoạt động xuất NK triển khai có “bài bản”, nhưng chúng ta vẫn ở trong tình trạng “chiến lược một đường, thực tế một nẻo”. Đó là, trong khi mục tiêu XK đề ra 24,444 tỷ USD, thực hiện 32,442 tỷ USD, tức là vượt tới 7,998 tỷ USD và 32,72%, còn hai cặp số liệu này trong NK là 29,165 tỷ USD và 36,978 tỷ USD; 7,813 tỷ USD và 26,79%. Chính vì bị “lệch pha” như vậy, kim ngạch nhập siêu năm 2005 đạt 4,648 tỷ USD, lớn gấp 5,74 lần so với dự kiến chỉ ở mức 810 triệu USD.

Tất cả những điều nói trên cũng có nghĩa là, “đoàn tàu NK và nhập siêu” của nền kinh tế nước ta vẫn vận hành ngoài “quỹ đạo” của các nhà quản lý. Nói cụ thể, mặc dù XK vẫn đạt nhịp độ tăng trưởng cao nhưng nhịp độ tăng NK còn cao hơn nữa, cho nên kế hoạch giảm nhập siêu ngày càng trở nên xa vời hơn.

Ánh sáng cuối đường hầm?

Tất cả những điều nói trên cũng có nghĩa là, lý lẽ của quan điểm nói trên về nhập siêu hiện nay là thiếu sức thuyết phục, bởi nó chẳng có gì mới hơn “bản trường ca” ưu tiên NK tư liệu sản xuất để phát triển sản xuất và tăng cường XK trong hàng chục năm qua.

Nhân đây, cũng cần nhấn mạnh rằng, luận điểm cho rằng trong một giai đoạn phát triển nhất định, nhập siêu là tất yếu để biện minh cho thực trạng của nền kinh tế nước ta là không có căn cứ. Bởi lẽ, trong lịch sử gần 3 thập kỷ cải cách và mở cửa vừa qua của Trung Quốc chẳng hạn, thời kỳ này chỉ kéo dài trong 6 năm 1984-1989 với tổng kim ngạch nhập siêu 46,269 tỷ USD và đạt tỷ lệ 20,66%, còn trước và sau đó đều xuất siêu, đặc biệt là xuất siêu gần đây ngày càng khổng lồ (năm 2005 đạt 102 tỷ USD và 15,45%; năm 2006 đạt 177,5 tỷ USD và 22,42%), còn chúng ta đã nhập siêu nhiều thập kỷ liên tục và quá trình này sẽ còn tiếp tục.

Tiếp theo, cho dù việc NK và nhập siêu đại nhảy vọt hiện nay có phần do triển khai các dự án, xây dựng nhà máy.., cho nên chúng ta phải chịu khó đợi 1-2 năm nữa mới có sản phẩm, nhưng phần đóng góp này không phải là chủ yếu.

Cụ thể, các số liệu thống kê của Bộ Công - Thương cho thấy, trong tổng mức tăng gần 10 tỷ USD của kim ngạch NK trong 9 tháng qua, phần tăng của riêng nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng chỉ chiếm 2,562 tỷ USD và 25,69%. Điều này có nghĩa là, đại đa số trong tổng mức tăng của kim ngạch NK để hoặc là tiếp tục duy trì XK những sản phẩm cũ, hoặc là đáp ứng các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước.

Nếu xem xét chi tiết hơn, có thể khẳng định chắc chắn rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến NK và nhập siêu tăng đại nhảy vọt hiện nay càng khiến chúng ta càng không thể nhìn nhập siêu với con mắt tích cực.

Đó là, xét về giá cả, đối với mặt hàng NK “đầu vị” xăng dầu với tổng giá trị NK 9 tháng qua ước đạt 5,111 tỷ USD, nếu như bình quân mỗi tấn hàng NK năm 2003 chỉ là 244,43 USD/tấn, thì hiện đã tăng đại nhảy vọt lên 555 USD/tấn, đạt kỷ lục tăng bình quân 22,75%/năm; “về nhì” là giá của nhóm hàng sắt thép, phôi thép và các kim loại thường khác với tổng giá trị NK 9 tháng qua ước đạt 4,722 tỷ USD với “bộ ba” số liệu này là 418,25 USD/tấn; 809,12 USD/tấn và 17,93%/năm... Chính vì giá NK các nhóm hàng và mặt hàng “cùng đua nhau tăng tốc”, cho nên kim ngạch NK các loại nguyên liệu của nước ta cũng liên tục tăng đại nhảy vọt.

Cụ thể, nếu như tổng kim ngạch NK 12 nhóm hàng và mặt hàng này của nước ta năm 2003 chỉ mới là 6,722 tỷ USD, thì năm 2004 đã bất ngờ tăng đại nhảy vọt lên 7,545 tỷ USD, tức là tăng 3,277 tỷ USD và 48,75%; còn “bộ ba” số liệu này năm 2005 là 12,204 tỷ USD; 2,204 tỷ USD và 22,05%; năm 2006 là 14,88 tỷ USD; 2,676 tỷ USD và 21,93%. Vẫn theo đà này, tổng kim ngạch NK 12 nhóm hàng và mặt hàng này trong 9 tháng đầu năm nay ước đạt 13,927 tỷ USD, cũng tăng đại nhảy vọt 2,689 tỷ USD và 23,93% so với cùng kỳ năm 2006.

Trong đó, nếu quy về giá năm 2003, tức là tính theo giá NK của các nhóm hàng và mặt hàng này khi thị trường thế giới còn chưa sốt nóng, thì càng thấy những khoản thua thiệt về giá khổng lồ mà chúng ta buộc phải chấp nhận.

Cụ thể, với 9,999 tỷ USD hàng hoá NK 12 nhóm hàng và mặt hàng này trong năm 2004, chúng ta đã bị thua thiệt về giá tới 2,454 tỷ USD, bằng 24,55% tổng kim ngạch NK và “bộ ba” số liệu này năm 2005 là 12,204 tỷ USD; 4,457 tỷ USD và 36,52%; năm 2006 là 14,88 tỷ USD; 6,503 tỷ USD và 43,71%. Đặc biệt, chỉ trong 9 tháng đầu năm nay, do giá các nhóm hàng và mặt hàng này vẫn tiếp tục tăng “phi mã” như nói trên, cho nên chỉ với tổng kim ngạch NK ước đạt 13,927 tỷ USD, khoản thua thiệt về giá vẫn đạt kỷ lục 6,636 tỷ USD và bằng 47,65% tổng kim ngạch NK.

Cũng từ các số liệu thống kê, có thể khẳng định rằng, trong tốc độ tăng đại nhảy vọt của NK các nhóm hàng và mặt hàng NK chủ yếu này, vai trò của yếu tố tăng khối lượng NK nhìn chung không lớn, mà chủ yếu là do sốt nóng giá cả thế giới khuếch đại lên.

Cụ thể, trong tổng số 3,277 tỷ USD và 48,75% tăng NK của năm 2004 so với năm trước, chỉ có 823 triệu USD là do tăng khối lượng, chiếm 12,24%, còn lại 2,454 tỷ USD và 36,51% là do tăng giá. Hơn thế, trong năm 2005, trong 2,205 tỷ USD và 22,05% tăng NK, phần tăng do khối lượng chỉ vỏn vẹn có 202 triệu USD và 2,02%, còn phần tăng do tăng khối lượng đều gấp 10 lần (2,002 tỷ USD và 20,03%). Tuy nhiên, năm 2006 vừa qua, trong 2,676 tỷ USD và 21,93% tăng NK, đã có 629 triệu USD và 5,16% là tăng do khối lượng, còn lại 2,046 tỷ USD và 16,77% là do tăng giá, còn trong 2,689 tỷ USD và 23,93% tăng NK 9 tháng đầu năm nay thì phần tăng do khối lượng đã cao hơn với 1,294 tỷ USD và 11,52%, còn phần tăng do tăng giá đã giảm còn 1,395 tỷ USD và 12,41%.

Tất cả những kết quả tính toán nói trên cho phép khẳng định rằng, quy mô NK sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới liên tục tăng mạnh như vậy đương nhiên không chỉ góp phần rất quan trọng đẩy quy mô và tỷ lệ NK, nhập siêu của nước ta tăng cao, mà đây cũng là một nguyên nhân rất quan trọng đẩy tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng cao ngất ngưởng. Bên cạnh đó, còn một hệ quả không nhỏ khác mà chúng ta phải gánh chịu. Đó là, trong khi giá nguyên liệu NK liên tục tăng nhưng giá các sản phẩm XK chỉ tăng “nhỏ giọt” nên lợi nhuận sản xuất kinh doanh liên tục giảm.

XK tăng đại nhảy vọt “sau khi gia nhập WTO” của chúng ta chỉ là một giấc mơ, còn NK và nhập siêu tăng đại nhảy vọt, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm và một hệ quả khác kèm theo là lạm phát cao ngất ngưởng lại là những thực tế. Tuy nhiên, nếu xu thế hạ nhiệt của giá cả nguyên liệu thế giới trong những năm tới diễn ra đúng như dự báo của các định chế quốc tế, cộng với việc đầu tư nước ngoài đã, đang và chắc chắn sẽ còn ồ ạt đổ vào nước ta để sớm “lấp những lỗ hổng” trong nền công nghiệp của chúng ta, có thể hi vọng nhập siêu sẽ dần hạ nhiệt.

Nguyên nhân sâu xa của tình trạng nhập siêu chính là do cách đầu tư phát triển của chúng ta lâu nay vẫn là “bóc ngắn cắn dài”. Đó là ồ ạt đầu tư vào các khâu “hạ nguồn” để “đánh nhanh, thắng nhanh” còn những khâu “thượng nguồn” thì “mặc kệ”. Điển hình nhất về tình trạng này có lẽ là việc ồ ạt đầu tư vào khâu cán thép, còn các khâu từ khai thác quặng, luyện gang và phôi thép thì hàng chục năm qua vẫn “né”, cho nên chúng ta hiện đang “sống dở, chết dở” vì chính sách hạn chế XK phôi thép của Trung Quốc. Bên cạnh đó, việc ồ ạt đầu tư vào công nghiệp may, còn công nghiệp sợi, dệt, nhuộm và phụ liệu thì “què quặt”, dẫn tới NK các mặt hàng này thường xuyên lớn hơn kim ngạch XK hàng dệt may cũng là thí dụ thuyết phục.


Nguồn: DDDN.