
Tin tức
Năng lượng Việt Nam làm gì để phát triển bền vững (08/11)
06/08/2010 - 199 Lượt xem
Cuộc hội thảo do Vụ Năng lượng và Dầu khí (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Năng lượng Việt Nam chủ trì, Trung tâm tư vấn năng lượng (VECC) cùng Công ty cổ phần và xúc tiến thương mại Việt Nam (VIE PROMOTION) tổ chức đã thu hút trên 200 đại biểu, bao gồm các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty… hoạt động trong lĩnh vực năng lượng trong nước và quốc tế. Gần 30 báo cáo về các vấn đề năng lượng như: điện, than, dầu khí, điện hạt nhân, năng lượng mới và tái tạo… đã được trình bày trong 2 ngày hội thảo.
Đề cập đến nguồn năng “cổ điển” (thủy điện, nhiệt điện chạy than, chạy khí…) có thể bứt phá được không và bứt phá đến mức nào, ông Tạ Văn Hường, Vụ trưởng Vụ Năng lượng và Dầu khí cho hay: các tổng sơ đồ quy hoạch phát triển của ngành điện trước đây chỉ xây dựng ở mức phụ tải tăng từ 11% đến 13%, tối đa là 15%. Khi chuẩn bị gia nhập WTO, chúng ta xây dựng phương án tăng 16% mà đã có rất nhiều ý kiến ái ngại.
Tuy nhiên gần đây, do nền kinh tế của Việt Nam thu hút vốn đầu tư gia tăng với tốc độ bất ngờ, lên tới trên chục tỉ đôla mỗi năm, nên khi phê duyệt Quy hoạch Tổng sơ đồ điện VI, Chính phủ đã chỉ đạo phương án thấp nhất tăng 17%/năm. Sau đó, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo tăng mức phụ tải lên 20% để điều hành và chuẩn bị cả phương án tăng 22%/năm cho trường hợp tăng trưởng đột biến về đầu tư. Với mức tăng đột phá này, không ít câu hỏi đặt ra: nếu chúng ta phát triển nhanh được như thế thì có bảo đảm ổn định không và lấy đâu tiềm lực để bứt phá? Vụ trưởng Tạ Văn Hường cho rằng, mục tiêu trên quả là một thách thức rất lớn và đòi hỏi quyết tâm vượt bậc và vào cuộc đồng bộ của tất cả các cấp, các ngành.
Phản ánh về vấn đề này, Viện trưởng Viện năng lượng (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) Phạm Khánh Toàn cho biết, hết năm 2006, nước ta mới đạt sản lượng điện 60,6 tỉ kwh, bình quân mỗi người dân mới 710 kwh (đứng vào top cuối trong các nước ASEAN). Nói về quy hoạch phát triển điện Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015, xét đến 2025, ông Toàn đưa ra các phương án phát triển nguồn, tuy nhiên mức cao nhất, cũng chỉ dám dự báo điện thương phẩm, trong giai đoạn 2006 - 2025 tăng bình quân 17,1%/năm.
Còn ông Phạm Văn Sáu - Giám đốc Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than và khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng bức xúc bởi việc khai thác than ngày càng khó khăn, những năm tới chủ yếu khai thác hầm lò ở độ sâu âm 300m, nên phải đầu tư rất lớn, giá thành cao. Dù ngành than có tăng tốc đến mức cao nhất thì đến năm 2015 cũng chỉ đạt khoảng 60 triệu tấn và năm 2025 gần 75 triệu tấn, trong khi nhu cầu về than cho sản xuất điện cần ít nhất 80 triệu tấn (2015) và hơn 120 triệu tấn vào năm 2025. Như vậy, để đáp ứng cho phát triển điện năng, nước ta phải NK khoảng 15 triệu tấn (2015) và 50 triệu tấn năm 2025. Đây rõ ràng là một trở ngại lớn cho đáp ứng nhu cầu năng lượng…
Điện hạt nhân - sự lựa chọn đúng đắn
Hầu như diễn giả nào cũng đề cập đến chủ đề phát triển điện hạt nhân (ĐHN) và coi đó là xu hướng tất yếu của hầu hết các quốc gia, bởi nguồn “cổ điển” sắp kịch trần và dần cạn kiệt. Trong số 5 diễn giả đề cập chuyên sâu “câu chuyện” phát triển ĐHN ở Việt Nam thì có 4 chuyên gia đến từ Nhật Bản, Trung Quốc, Nga và Pháp. Trong nước có bản tham luận của tiến sĩ Lê Văn Hồng, Phó viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Ông Hồng đưa ra thông tin: Thế giới hiện có 459 lò điện nguyên tử với công suất 372.000 MW; trong đó Mỹ đứng đầu: với 103 lò, tiếp đó là Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Tuy nhiên quốc gia ĐHN chiếm tỉ trọng cao nhất là Pháp (tới 76% tổng sản lượng điện). Hiện tại, nhiều nước xác định rằng ĐHN là lựa chọn quan trọng trong thế kỷ 21. Ông Hồng cho biết, đến năm 2020, Pháp sẽ phát triển ĐHN lên 85% tổng công suất, Mỹ: 50%. Việt Nam cũng sẽ có nhà máy ĐHN đầu tiên công suất 1.000 MW vào năm 2020 và năm 2025 thêm 2 tổ máy công suất 2.000 MW. Ông Hồng kết luận: Chiến lược phát triển ĐHN không chỉ nghĩ tới việc xây dựng một vài nhà máy, mà là chương trình dài hạn và nhiều nhà máy ở Việt Nam có thể phát triển đến 12.000 MW về ĐHN mới giải quyết được thiếu hụt điện năng cùng với việc tăng cường NK điện từ các nước láng giềng và NK than, NK khí đất cho sản xuất điện.
Theo tính toán, để đáp ứng nhu cầu điện năng ở mức 300 tỉ kwh vào năm 2020, cùng với các nguồn khác, Việt Nam cần xây dựng nhà máy ĐHN trước 2015 thì năm 2020 mới vận hành được Nhà máy ĐHN đầu tiên.
Vẫn bàn về phát triển ĐHN, ông Shang Weiqing - trợ lý Chủ tịch, giám đốc văn phòng đối ngoại Công ty Cổ phần điện hạt nhân Quảng Đông (Trung Quốc) cho biết: Trung Quốc hiện có 11 lò ĐHN với công suất xấp xỉ 9.000 MW, nhưng đến năm 2020 sẽ xây dựng 250 tổ máy ĐHN với công suất hơn 200 ngàn MW. Đáng chú ý, ông JuJi Takalisahi - Tổng giám đốc Ban Điện hạt nhân, Liên đoàn các công ty điện lực Nhật Bản, đưa ra dự báo: đến năm 2010, giá các loại năng lượng sẽ tăng 3 lần và Nhật Bản hiện có 55 tổ máy ĐHN đang hoạt động, đang thi công 2 tổ máy và tiếp tục xin phép xây dựng 4 tổ máy mới. ĐHN ở Nhật Bản giá thành giảm hơn 10% so với các nguồn điện khác và bảo đảm được môi trường, không bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính. Ông JuJi Takalisahi cũng khuyên Việt Nam nên xác định ĐHN là nguồn năng lượng có vai trò chủ yếu để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và bảo vệ môi trường. Ông Takalisahi mong muốn Nhật Bản được hợp tác toàn diện với Việt Nam trong phát triển ĐHN; Liên đoàn các Công ty điện lực Nhật Bản của ông sẽ được tham gia dự án tiền khả thi xây dựng tổ máy ĐHN đầu tiên của Việt Nam…
Năng lượng mới - Cần chính sách hỗ trợ
Chủ đề năng lượng mới, năng lượng sạch bao gồm: quang điện, năng lượng sinh khối, năng lượng gió và mặt trời… cũng được bàn luận khá sôi nổi. Tuy nhiên, hầu như gần 30 diễn giả thảo luận đều phản ánh tính cấp thiết phải có chính sách phát triển nhanh nguồn năng lượng mới và tái tạo. Trong đó nổi bật hơn cả là 7 diễn giả, như: ông Les Pool - giám đốc dự án hạ tầng quy mô lớn BP Solav (Anh - Ôxtrâylia) bàn về vấn đề quang điện; ông Nguyễn Quang Khải, giám đốc Trung tâm năng lượng môi trường (CISDOMA) bàn về phát triển năng lượng sinh khối; ông Đỗ Huy Định - Công ty Cổ phần phát triển phụ gia và sản phẩm dầu mỏ (APP) bàn về phát triển nhiên liệu sinh học cho các phương tiện vận tải; ông Lê Võ Đình Tường - Phân viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên TP. Hồ Chí Minh - nêu vấn đề trồng cây diezen làm nguyên liệu sản xuất diezen sinh học và phủ xanh đất trống, đồi trọc, chống sa mạc hóa ở Việt Nam; ông Vũ Mạnh Hà - Giám đốc Công ty Cổ phần năng lượng sạch toàn cầu và ông Nguyễn Đức Lộc - Trung tâm phát triển năng lượng bền vững (VSED) đề cập vấn đề phát triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời và ông Tô Bảo Thạch, Phó giám đốc Trung tâm tư vấn Năng lượng (VECC) bàn về ứng dụng năng lượng sạch...
Nói về thực trạng phát triển năng lượng gió ở Việt Nam, ông Vũ Mạnh Hà khẳng định, chỉ còn 13 năm nữa là đến năm 2020, thời điểm nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu nỗ lực cao, khi đó nước ta cũng mới đạt sản lượng điện gần 300 tỉ kwh. Đạt mức này, bình quân mỗi người dân Việt Nam cũng chỉ 2.300 - 2.400 kwh, chỉ bằng Malaixia cách đây 11 năm (1996), Việt Nam có tiềm năng gió lớn nhất Đông Nam Á, 40% diện tích thuộc vùng gió mạnh có thể xây dựng nhà máy điện công suất từ 100 đến 1.000 MW.
Tuy nhiên, nhiều dự án phát triển năng lượng gió, công suất 20 MW, 30 MW và 50 MW lập từ năm 1997 đến năm 2000, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn chưa được triển khai xây dựng. Ông Hà thắc mắc, trong danh mục các nhà máy điện đưa vào vận hành trong giai đoạn 2006 - 2015 của ngành điện không hề có một công trình điện độc lập nào sử dụng năng lượng tái tạo, dù chỉ vài chục MW. Theo ông Hà, đến nay, Việt Nam cũng chưa có chính sách khuyến khích hỗ trợ việc phát triển năng lượng mới và tái tạo. Điều đó phản ánh chúng ta còn xem nhẹ nguồn năng lượng sạch, trong khi tiềm năng có nhiều. Nhiều diễn giả đề nghị ngành điện và các nhà làm chính sách cần sớm ban hành chính sách hỗ trợ tích cực trong việc phát triển năng lượng mới, tái tạo; đưa vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thành luật trong thời gian sớm nhất.
Nguồn: Thương mại.
