Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Đầu tư cho nông nghiệp bằng nguồn vốn trong nước: Một tên hai đích (11/12)

06/08/2010 - 51 Lượt xem

Trước hết, các số liệu thống kê về giá tiêu dùng của nước ta trong 6 tháng gần đây cho thấy, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tuy chỉ chiếm 42,85% trong "rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội", nhưng do có tốc độ tăng giá liên tục vượt trội, cho nên ngày càng giữ vai trò "thủ phạm chính" dẫn đến giá tiêu dùng tăng mạnh trong 10 tháng qua. Và ngược lại, tuy lớn gấp 1,33 lần (chiếm tỷ trọng 57,15% còn lại), nhưng do có tốc độ tăng giá ngày càng thấp tương đối so với nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, nên 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại giữ vai trò ngày càng nhỏ trong việc đẩy giá tiêu dùng tăng cao.

Cụ thể, từ các số liệu thống kê về diễn biến của giá tiêu dùng và giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống trong 8 tháng gần đây so với tháng 12/2006, có thể tính được tốc độ tăng chung của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng còn lại.

Chỉ trong vòng 8 tháng, giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng thêm 9,44%, trong khi giá của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại chỉ tăng thêm 3,30%, tức là giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao gấp 2,86 lần so với tốc độ tăng giá của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại. Điều này có nghĩa là, hàng loạt giải pháp kiềm chế giá cả thị trường đã được áp dụng trong bốn tháng qua tỏ ra ít tác dụng hơn đối với nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống so với 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại.

Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, thực trạng nói trên bắt nguồn từ hai nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Hàng nông sản - hụt hơi và nhiều bất ổn

Cho dù dịch bệnh liên miên từ năm 2004 đến nay và thiên tai, lũ lụt liên tiếp gần đây là những tác nhân rất quan trọng, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng, vấn đề gốc gác là do sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất hàng nông sản thực phẩm nói riêng đã tỏ ra "hụt hơi" so với nhu cầu đang tiếp tục tăng mạnh của thị trường trong nước.

Xét trên bình diện tổng thể, nếu như giá trị sản xuất của lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2000 còn là 24,53%, thì năm 2005 chỉ còn là 20,97%; năm 2006 tiếp tục tụt xuống chỉ còn 20,36% và năm 2007 ước tính chỉ còn 19,8%. Cụ thể hơn, trong khi GDP của nước ta trong 6 năm vừa qua tăng 7,62%/năm, thì trong ngành chăn nuôi duy nhất chỉ có sản lượng thịt lợn tăng 7,86%/năm (tăng từ 18,27 kg/người năm 2000 lên 36,52 kg/người 2006), còn sản lượng thịt các loại khác (thịt trâu, thịt bò và gia cầm) trong cùng kỳ chỉ tăng 3,16%/năm (tăng từ 5,60 kg/người năm 2000 lên 6,75 kg/người 2006)...

Trong khi đó, XK hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản lại đạt được những kết quả hết sức đáng mừng, cho nên đương nhiên nguồn cung hàng nông sản dành cho thị trường trong nước sẽ bị ảnh hưởng. Bởi lẽ, các số liệu thống kê cho thấy, nếu như tổng kim ngạch XK hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2000 chỉ mới đạt 4,197 tỷ USD, thì năm 2006 vừa qua đã tăng vọt lên 9,624 tỷ USD, tức là đã đạt được nhịp độ tăng bình quân 14,83%/năm và cao gấp gần 4 lần so với tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.

Thời điểm hiện tại, các số liệu thống kê của ngành nông nghiệp cũng cho thấy sự bất cập của ngành này. Đó là, trong 10 tháng đầu năm nay, đàn lợn của nước ta đạt 26,561 triệu con và chỉ bằng 98,9% so với cùng kỳ năm 2006, còn tổng đàn gia cầm cũng chỉ đạt 226,027 triệu con và chỉ tăng 5,3%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cũng chỉ tăng 3,8%... Bên cạnh đó, tình hình của ngành trồng trọt còn đáng lo ngại hơn. Đó là tổng diện tích gieo trồng cây vụ đông miền Bắc hiện nay chỉ bằng 82,1%, trong đó đậu tương chỉ bằng 81,7%, rau đậu các loại chỉ bằng 64,3%... so với cùng kỳ năm 2006.

Rõ ràng, trong điều kiện thịt lợn chiếm 81,51% sản lượng trên thị trường thịt gia súc và gia cầm giảm, còn sản lượng thịt gia cầm chiếm 11,21% chỉ tăng thấp như vậy, thì ở thời điểm tháng 10 vừa qua, trung bình giá thịt lợn tăng đại nhảy vọt 37-38%, giá thịt gà và thịt bò cùng tăng 20-25% so với cùng kỳ năm 2006 là điều hiển nhiên. Và trong điều kiện nguồn cung và giá cả như vậy khi "mùa tiêu dùng" nông sản thực phẩm mới bắt đầu, thì việc thị trường này sẽ còn lên "cơn co giật" và lên tới đỉnh điểm vào dịp Tết Nguyên đán Mậu Tý đang cận kề là điều khó có thể tránh khỏi.


Giá nhiều mặt hàng trong nhóm “rổ lương thực, thực phẩm” những tháng vừa qua không chỉ khiến các bà nội trợ... đau đầu mà còn khiến nhiều nhà hoạch định chính sách mất ăn, mất ngủ. Đã có nhiều giải pháp được đưa ra như: tính lại chỉ số CPI, thắt chặt chi tiêu... Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Bích, chúng ta đã quên một giải pháp tự thân rất quan trọng: nông nghiệp.


Giá hàng nông sản - sốt nóng toàn cầu

Điều quan trọng là, sốt nóng giá hàng nông sản là căn bệnh toàn cầu, chứ không phải riêng gì ở nước ta, cho nên giải pháp "đinh" giảm mạnh thuế suất NK đối với một loạt mặt hàng nông sản cũng không giúp "lấp đầy lỗ hổng" trên thị trường nông sản trong nước và nguy cơ giá hàng nông sản thực phẩm còn tăng cao không chỉ trong "mùa tiêu dùng" đang cận kề, mà cả trong dài hạn là điều chúng ta không thể không tính tới.

Trước hết, các số liệu thống kê của IMF cho thấy, thị trường lương thực, thực phẩm thế giới năm nay bước vào năm thứ tư liên tục sốt nóng và tháng 10 trong giai đoạn "hậu El' Nino 2006-2007" vừa qua đứng ở mức kỷ lục 129,8 điểm và bình quân 10 tháng đầu năm nay đạt 117,7 điểm (năm 1995 = 100 điểm), trong khi năm 2004 khởi đầu chu kỳ sốt nóng hiện nay chỉ mới là 94,5 điểm; năm 2005: 96,1 điểm; năm 2006: 105,2 điểm.

Còn trong tương lai, một công trình nghiên cứu chung của FAO và OECD gần đây cho thấy, từ nay tới giữa thập kỷ sau, giá nông sản thế giới sẽ liên tục trong trạng thái sốt nóng như hiện nay. Chẳng hạn, giá gạo sẽ dao động trong khoảng 314-320 USD/tấn; giá lúa mỳ 155-163 USD/tấn; giá đường thô 263-286 USD/tấn; giá các loại hạt có dầu 260,6-271,5 USD/tấn; giá thịt lợn 145-155 Euro/100 kg...

Sở dĩ như vậy là do, trong vòng 1 thập kỷ tới, trong khi diện tích đất trồng trọt trên thế giới chỉ tăng 1%/năm so với tỷ lệ tăng 1,3% trong 20 năm qua và 2% những năm trước đó, thì bên cạnh việc sản lượng phải tăng 2,5%/năm cho nhu cầu lương thực của con người và chăn nuôi, nông nghiệp còn phải "gánh thêm" mức tăng sản lượng 0,8%/năm cho việc sản xuất nhiên liệu sinh học do nhu cầu ngày càng tăng mạnh trong khi các nguồn năng lượng cổ truyền ngày càng bất cập. Trong khi đó, sự biến đổi khí hậu toàn cầu làm trái đất ấm lên gây ra những hậu quả khủng khiếp về khí hậu và môi trường, sẽ còn gia tăng và mức độ thiệt hại sẽ lớn hơn nhiều, trực tiếp đe doạ sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực.

Giải pháp đầu tư

Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, muốn kiềm chế không để cho giá tiêu dùng tăng quá cao như hiện nay, đồng thời để tiếp tục đẩy mạnh XK, chúng ta không thể không đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất hàng nông sản thực phẩm nói riêng, đặc biệt là bằng cách nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Do vậy, vấn đề đặt ra không chỉ trước mắt, mà cả về lâu dài đối với nền kinh tế nước ta là phải đầu tư thỏa đáng cho sản xuất nông nghiệp nói chung, đặc biệt là cho sản xuất hàng nông sản thực phẩm.

Tuy nhiên, cho đến nay, có nhiều động thái cho thấy, khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn tiếp tục nằm "ngoài rìa làn sóng phát triển" của đất nước. Bởi lẽ, đầu tư cho nông nghiệp vừa quá nhỏ, vừa chắp vá, phân tán. Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong 5 năm qua, tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ đạt trên 113 nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 8,7% vốn đầu tư của cả nước và chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu của khu vực này.

Trong khi đó, làn sóng FDI đang ồ ạt đổ vào nền kinh tế nước ta hiện nay cũng "lãng quên" khu vực nông nghiệp: tính đến tháng 6/2007, khu vực nông nghiệp chỉ chiếm 10,12% số dự án còn hiệu lực (758/7.490 dự án); số vốn đăng ký cũng chỉ chiếm 5,62% (3,78 tỷ USD); vốn thực hiện cũng chỉ chiếm 6,33% (gần 1,9 tỷ USD), còn nếu chỉ tính trong nửa đầu năm nay thì số dự án FDI đầu tư vào khu vực này chỉ vỏn vẹn 2%...

Vì vậy, đầu tư mạnh và đồng bộ vào nông nghiệp là yêu cầu sống còn từ bây giờ và trong cả tương lai xa. Bởi nó sẽ đạt được cả 2 đích ngắm: giảm sốt giá và tạo nền tảng phát triển vững chắc.


Nguồn: DĐDN