
Tin tức
Có thể kiềm chế nhập siêu (27/12)
06/08/2010 - 47 Lượt xem
Thế nhưng, vấn đề ở chỗ, “câu chuyện” nhập siêu của nền kinh tế Việt Nam đã kéo dài từ nhiều thập kỷ và đây chính là bước tăng đột biến, cho nên dự báo về khả năng nền kinh tế chuyển sang xuất siêu vào cuối thập kỷ này sẽ khó thành hiện thực.
Thực tế cho thấy, tuy xuất khẩu năm nay vẫn vượt kế hoạch đã đề ra, nhưng do nhập khẩu đã tăng tốc không như mong đợi, nên nhập siêu sẽ không chỉ dừng lại ở mức như dự báo, mà có thể sẽ vượt xa ngưỡng hai chữ số. Cụ thể, nếu như kim ngạch xuất khẩu trong tháng 12 này nhích lên so với tháng 11 vừa qua và đạt hơn 4,6 tỷ USD, thì với kim ngạch xuất khẩu ước đạt trên 48,3 tỷ USD hàng hoá, tốc độ tăng xuất khẩu trong năm nay cũng chỉ là 21,28%. Trong khi đó, chắc chắn tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá trong cả năm nay không chỉ dừng ở mức 57 tỷ USD như dự báo cách đây không lâu, bởi nếu kim ngạch nhập khẩu trong tháng 12 này vẫn tiếp tục tăng so với tháng 11 vừa qua (5,75 tỷ USD), thì với kim ngạch nhập khẩu hàng hoá ước khoảng 60,83 tỷ USD (theo báo cáo mới đây của Bộ Công Thương), tốc độ tăng nhập khẩu cả năm sẽ tăng đại nhảy vọt: trên 35%.
Nhập khẩu trong năm “hậu WTO” đầu tiên đã tăng bùng nổ. Cụ thể là với tốc độ tăng 35,22%, “đoàn tàu nhập khẩu” năm nay chẳng những đã bỏ quá xa tốc độ tăng bình quân 19,22%/năm trong 6 năm (2001-2006), mà còn bỏ rất xa tốc độ phát triển bình thường trong 4 năm gần đây (lần lượt là 27,76%; 26,66%; 15,75%; 20,10% và bình quân là 22,80%/năm). Chính do sự “lệch pha” như vậy trong xuất nhập khẩu, nên chẳng những mức nhập siêu năm nay sẽ cao gấp 3,22 lần so với bình quân 6 năm qua (3,853 tỷ USD/năm), mà còn cao gấp 2,27 lần so với mức kỷ lục trong năm 2004 (5,451 tỷ USD).
Với thực trạng xuất nhập khẩu như trên, ngoài những điểm đáng mừng, còn không ít điểm đáng lo ngại.
Trước hết, điều đáng mừng là ở chỗ, do quá trình đầu tư phát triển từ các nguồn vốn Nhà nước, ODA, FDI và dân doanh đều đồng loạt tăng tốc, nên đã dẫn đến nhập khẩu tăng bùng nổ, mà biểu hiện rõ nét nhất chính là nhập khẩu nhóm hàng máy móc, thiết bị. Số liệu thống kê cho thấy, nếu nhập khẩu trong tháng 12 này tăng giống “kịch bản” cùng kỳ năm 2006, thì tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng trên trong cả năm nay lần đầu tiên sẽ vượt ngưỡng 10 tỷ USD, tăng đại nhảy vọt 57,59% và chiếm tỷ lệ kỷ lục 17,29% trong “rổ hàng hoá nhập khẩu” (năm 2006 chiếm 14,60%).
Số liệu thống kê của các cơ quan chức năng còn cho thấy, nhập khẩu nguyên, vật liệu chiếm khoảng 2/3 tổng mức tăng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước trong năm 2007, trong đó, sự gia tăng nhập khẩu bùng nổ của nhóm hàng này không chỉ do nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh, mà còn do giá hàng nhập khẩu tăng cao. Chẳng hạn, trong 11 tháng của năm 2007, với mặt hàng “đầu vị” là xăng dầu, trong khi khối lượng nhập khẩu chỉ tăng 12,1% thì giá trị nhập khẩu tăng 20%. Hoặc mặt hàng “về nhì” là sắt thép thì cặp số liệu tương ứng đều đạt kỷ lục 32,5% và 61,5%. Riêng mặt hàng chất dẻo, con số tương ứng là 21,8% và 33,7%...
Các số liệu thống kê kinh tế thế giới còn cho thấy một xu thế rất đáng quan tâm khác đối với nền kinh tế nước ta. Đó là theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), trong 4 năm trở lại đây, trong khi giá hàng chế tạo và chế biến chỉ tăng bình quân 6,20%/năm, thì giá nhóm hàng nguyên liệu phi dầu mỏ tăng “phi mã” 17,15%/năm; còn giá dầu mỏ tăng cao hơn với bình quân 24,10%/năm.
Sự “lệch pha” như vậy trong xu thế diễn biến của các nhóm hàng trên thị trường thế giới cho thấy, những nền kinh tế càng phụ thuộc nặng nề vào thị trường nguyên vật liệu thế giới thì càng chịu nhiều tác động bất lợi. Hệ quả là lạm phát tăng tốc và lợi nhuận từ sản xuất, kinh doanh cả trên thị trường trong nước lẫn xuất khẩu đều giảm.
Do vậy, vấn đề đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm “hậu WTO” tiếp theo là phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp nguyên liệu - vấn đề cốt tử mà Chiến lược Ổn định và Phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cách đây 17 năm đã khẳng định, nhưng cho đến nay mới bước vào giai đoạn triển khai trên diện rộng, đồng thời phải gia tốc phát triển các ngành công nghiệp phù trợ để thay thế hàng loạt sản phẩm xuất khẩu “vỏ Ta, ruột Tây” bằng các sản phẩm “Made in Vietnam” thực sự.
Nói cách khác, trong khi tiếp tục nỗ lực mở rộng thị trường xuất khẩu, nhưng tốc độ tăng cũng chỉ “đủng đỉnh” ở mức 22% như mục tiêu của năm 2008, thì một hướng đi cực kỳ quan trọng là phải tận dụng thị trường nguyên, phụ liệu, linh kiện nhiều chục tỷ USD mỗi năm mà chúng ta đã nhọc công tạo dựng trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua, nhưng đang rơi vào tay một số quốc gia trong khu vực. Điều này cũng có nghĩa là, bằng hướng đi trên, cho dù không thể tăng đột biến xuất khẩu “hậu WTO”, nhưng chúng ta vẫn có thể tăng tốc phát triển kinh tế.
Nguồn: Báo Đầu tư
