
Tin tức
Lạm phát: Bài học về sự nóng vội và thiếu bài bản (02/01)
06/08/2010 - 47 Lượt xem
Năm 2007, với xu thế hội nhập quốc tế, nền kinh tế nước ta trên đà khởi sắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt ở mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, dự trữ ngoại tệ tăng mạnh, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, các chỉ tiêu về kinh tế-xã hội đều tăng khá.
Tuy nhiên, năm qua cũng ghi nhận hàng loạt những biến động trên thị trường trong nước. Giá xăng dầu trong nước tiếp tục chịu sức ép tăng giá trên thị trường dầu mỏ thế giới. Thị trường bất động sản “nóng” lên ngay từ đầu năm do nhu cầu tăng. Giá vàng tăng kỷ lục và tiếp tục chịu ảnh hưởng lớn từ những diễn biến trên thị trường vàng thế giới.
Trên thị trường tín dụng, lãi suất huy động và lãi suất cho vay tiếp tục gia tăng. Thị trường ngoại hối rơi vào tình trạng “bội thực” ngoại tệ. Giá cả leo thang từng tháng, lạm phát cả năm cao ở mức hai con số.
Bên cạnh những giải pháp kiểm soát kịp thời cũng bộc lộ rõ những bất cập trong công tác điều hành và quản lý. Trước thềm năm mới 2008, những nguyên nhân, bài học và giải pháp thiết thực đã được phân tích nhằm tìm ra một định hướng đúng để nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.
Giải pháp kiềm chế lạm phát năm 2008
(TS. Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính - Tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
“Theo tôi, sang năm 2008 nền kinh tế của chúng ta sẽ đón nhận nhiều tín hiệu khởi sắc. Vấn đề lạm phát có thể kiềm chế được nếu ngay từ đầu năm chúng ta chủ động đưa ra các giải pháp đồng bộ điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngân sách và hàng hóa phù hợp.
Về chính sách tiền tệ và tín dụng, Ngân hàng nhà nước nên tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt với mục tiêu ưu tiên là kiểm soát lạm phát, từ đó tạo môi trường ổn định cho tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói, ngay từ đầu năm phải chủ động thắt chặt và có lộ trình, kế hoạch đưa tiền ra để mua ngoại tệ và đặc biệt là hình thức dùng tiền Việt để mua ngoại tệ một cách phù hợp, nhằm giữ phương tiện thanh toán cả năm ở mức 22-24% so với cuối năm 2007. Hơn nữa, dư nợ tín dụng nên kiềm chế ở mức 22-25%.
Thứ hai, cần tăng cường thanh tra, giám sát và chỉ đạo các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ quá trình tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần. Ngoài ra, cần phát triển hệ thống thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại hối liên ngân hàng. Thực hiện tốt nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện hệ thống thông tin và nâng cao chất lượng dự báo vốn khả dụng, đảm bảo các hoạt động dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Về ngân sách Nhà nước, cần phấn đấu giữ bội chi ngân sách nhà nước theo đúng chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 5% trên GDP, tiếp tục thực hiện tiết kiệm triệt để trong đầu tư xây dựng, trong chi tiêu của Nhà nước, tiếp tục tăng cường hiệu quả chi ngân sách thông qua việc kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu ngân sách đúng mục đích, đúng dự toán, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu đã quy định và tiếp tục triển khai các biện pháp chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước, xác định các tiêu chuẩn tiếp tục giải ngân cho những địa phương, bộ ngành như theo mức độ thực hiện dự án.
Về cung ứng hàng hóa và quản lý giá, cần khuyến khích cạnh tranh, mở rộng đối tượng cho phép tham gia kinh doanh ví dụ như trong nhập khẩu xăng dầu... Rà soát điều kiện kinh doanh đã ban hành, loại bỏ những yêu cầu không còn phù hợp với kinh tế thị trường và không giúp cho việc quản lý tốt hơn.
Bên cạnh đó, cần điều hành xuất nhập khẩu theo sát diễn biến tình hình thị trường, đảm bảo cung cầu hàng hóa được điều hòa trên cả nước, tránh mất cân đối cục bộ làm tăng giá; tiếp tục triển khai thực hiện lộ trình xóa bao cấp qua giá để giá dầu, giá than (trừ than bán cho sản xuất điện) thực hiện theo cơ chế thị trường; đẩy mạnh thanh tra, giám sát các doanh nghiệp cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho nền kinh tế để tránh tình trạng đầu cơ, cấu kết nâng giá thị trường.
Ngoài ra, nên sắp xếp mạng lưới lưu thông hàng hóa với mô hình tạo khối lượng dự trữ lưu thông đủ mạnh, nhất là những mặt hàng thiết yếu để Nhà nước có khả năng can thiệp thị trường trong những trường hợp cần thiết nhằm bình ổn giá cả và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng, tham gia tích cực vào cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy hàng hóa lưu thông thông suốt từ sản xuất đến tiêu dùng”.
Bất cập trong công tác dự báo
(TS.Nguyễn Minh Phong, Trưởng phòng nghiên cứu kinh tế, Viện Kinh tế - Xã hội Hà Nội)
“Dù loại trừ các yếu tố bên ngoài, khách quan, vẫn có thể nhận thấy có sự liên hệ trực tiếp giữa việc tăng giá cả xã hội với chính sách điều hành giá cả thị trường trong nước trong thời gian vừa qua.
Chính phủ đã có nhiều cố gắng và đã đạt được một số kết quả nhất định về kiềm chế tăng giá trong năm nay nhưng vẫn dễ dàng nhận ra sự bất cập trong hoạt động của Tổ điều hành giá cả, mà biểu hiện rõ nét và tập trung nhất là ở quan điểm và cách thức “bắt mạch”, dự báo xu hướng biến động giá cả cũng như sự sẵn sàng và hiệu quả của đơn thuốc được kê cho các tình huống giá cả phát sinh.
Thứ nhất, chưa coi trọng đúng mức và phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo giá cả khách quan với mục tiêu chủ quan. Nên số liệu CPI thực so với số liệu CPI mà Tổ này dự báo luôn cao hơn tới 20-30%. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến Chính phủ liên tục bị bất ngờ và lúng túng trong giải mã các động thái của giá cả thị trường.
Thứ hai, chưa coi trọng việc tuân thủ đúng cả yêu cầu, lẫn quy trình kinh tế thị trường trong quản lý giá cả. Việc trả giá cả về cho thị trường quyết định là sự cần thiết khách quan, song việc này phải đi đôi với việc trả sự cạnh tranh về cho thị trường.
Thứ ba, chưa coi trọng sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan chức năng và các loại công cụ chính sách. Các cơ quan liên ngành mới chỉ tập trung vào các giải pháp về tài chính, còn nhóm giải pháp về tiền tệ thì khá mờ nhạt.
Ngoài ra, việc nghiêng về phát hành trái phiếu quốc tế để thu hút ngoại tệ, trong khi lượng trái phiếu đó có thể được phát hành trong nước để hút ngoại tệ và lượng tiền dư thừa cũng là một bất cập khác...”.
Bài học về sự nóng vội và thiếu bài bản
(ThS. Đỗ Xuân Trường, Phòng Nghiên cứu chính sách giá, Viện Nghiên cứ Khoa học Thị trường giá cả, Bộ Tài chính)
“Tình trạng lạm phát trong năm 2007 cho thấy những bài học đáng chú ý nhất trong công tác điều hành, quản lý.
Thứ nhất là “Bài học về sự nôn nóng”. Tự do hóa giá cả là một tiến trình đúng đắn của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, giá cả chỉ phát huy được một cách đúng đắn quyền tự do của mình khi thị trường đã trưởng thành ở một mức độ nhất định. Một số thị trường với điều kiện chưa có được những trưởng thành và sung sức, việc giá cả đã sớm được tự do bươn chải, định đoạt số phận của mình lại là những nóng vội, thậm chí mang tính chất mong muốn chủ quan.
Thứ hai là bài học về tính “bài bản” trong hoạch định chính sách, điều hành, quản lí. Sự tăng lên nhanh chóng, với mức độ lớn của luồng vốn đầu tư nước ngoài không những không được dự báo tốt mà còn thiếu những biện pháp và giải pháp thích hợp, đúng đắn.
Cho đến những ngày cuối năm, khi dòng vốn từ nước ngoài tiếp tục đổ vào, khi giá cả tiếp tục tăng mạnh, khi các giải pháp kiềm chế tăng giá đã được Chính phủ chỉ đạo sát sao, quyết liệt..., nhưng vấn đề vĩ mô có tính căn bản liên quan đến việc xử lí mối quan hệ giữa 3 trụ cột quan trọng, đó là chế độ tỉ giá, tự do hóa luồng vốn đầu tư và tính độc lập của chính sách tiền tệ, vẫn chưa được đề cập và bàn thảo một cách chính thức và thấu đáo.
Việc phát hành tiền Đồng, mua vào một khối lượng lớn ngoại tệ chưa được đặt trên nền tảng có tính bài bản của việc xử lí tổng thể các mối quan hệ rất cơ bản có tính quyết định này và vì vậy sự “lúng túng”, chậm trễ, thậm chí thiếu sót trong việc thực hiện nghiệp vụ trung hòa dường như là khó tránh khỏi”.
Lạm phát bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ
(TS.Nguyễn Đại Lai, Phó Vụ trưởng , Vụ Phát triển, Ngân hàng Nhà nước)
“Trước hết, cần khẳng định rằng, lạm phát bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ. Lần đầu tiên trong vòng 10 năm trở lại đây lạm phát ở Việt Nam đã có tốc độ cao, lên tới hai con số. Trong bối cảnh đó, nhiều ngân hàng thương mại đang trong tình trạng thiếu tiền đồng nội tệ (VND), thừa USD.
Vì thế, công tác điều hành tiền tệ đang đứng trước các lựa chọn khó khăn. Ngân hàng Nhà nước hạn chế mua USD để kiềm chế cung tiền đồng trong điều kiện lạm phát ở thời điểm cuối năm 2007 là lẽ đương nhiên, nhưng do không sớm áp dụng các giải pháp đồng bộ một cách chủ động ngay từ đầu và giữa năm nên vô hình chung đã đẩy nhiều ngân hàng thương mại vào tình trạng gặp khó khăn thanh khoản VND, phải chấp nhận lãi suất huy động nói chung, lãi suất Việt NamD qua đêm nói riêng tăng đột biến. Nếu vào những tháng cuối 2007 Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tung VND ra để “ôm” USD vào thì lại không đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát vốn đã ở tình trạng báo động rồi.
Xem xét tình trạng thừa USD của các ngân hàng thương mại hiện nay có thể thấy 3 hiện tượng. Thứ nhất, một số ngân hàng thương mại có thể lâm vào trạng thái “thừa thật” - biểu hiện ở số dư ngoại tệ lớn hơn trạng thái dư cho phép.
Tuy diễn biến này chỉ xảy ra ở một số ngân hàng nhưng cũng báo hiệu rằng luồng USD vào Việt Nam trong năm 2007 là rất lớn.
Biểu hiện thứ hai là một số ngân hàng thừa ngoại tệ tương đối do cơ cấu dự trữ ngoại tệ bất hợp lý, trong khi thừa đồng USD nhưng lại thiếu trầm trọng các ngoại tệ khác như Euro, Nhân dân tệ, Yên Nhật.
Thứ ba là các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung còn thiên về việc sử dụng nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ ngắn và trung hạn, coi nhẹ các quan hệ mua đứt, bán đoạn cũng như coi nhẹ việc sử dụng các công cụ phái sinh ngoại tệ.
Tôi cho rằng, với cơ chế hoạt động như vậy, ngoài hiệu ứng kích thích tình trạng Đôla hoá, còn khiến cho các ngân hàng thương mại trở thành nơi luôn bị động trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ khi doanh nghiệp đột xuất có nhu cầu, đột xuất xin mở L/C và “vay” thanh toán hàng nhập theo L/C, còn như tình hình hiện nay xét trong ngắn hạn thì ngân hàng thương mại lại đang là nơi cất giữ tiền hộ cho DN xuất khẩu một cách bất hợp lý về cơ cấu ngoại tệ.
Trên thực tế, từ khi thực hiện chính sách đổi mới, kinh tế Việt Nam vẫn cơ bản là một nền kinh tế nhập khẩu. Một nền kinh tế nhập siêu, tại sao không tìm cách hữu dụng hoá các cơ hội ngoại tệ, lại cứ lo thừa ngoại tệ trên tổng quát?
Một loại nguyên nhân nữa là dường như ở Việt Nam hiện nay đang song song tồn tại 3 khu vực kinh tế độc lập tương đối với nhau xét chủ yếu qua “cơ chế đầu vào” và một phần cơ chế sử dụng phương tiện thanh toán hoàn toàn khác nhau, gồm: kinh tế sở hữu Nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu vào của khu vực kinh tế nhà nước có rất nhiều nhân tố rẻ và độc quyền nhưng năng suất lao động thấp, hàm lượng giá trị gia tăng nhỏ làm cho giá cả vẫn cao.
Hai khu vực còn lại có các nhân tố đầu vào khá cao và rất cao đồng thời hầu như có rất ít nhân tố “ưu đãi” nên nhìn chung “giá xuất xưởng” của 2 khu vực này cao hơn khu vực kinh tế nhà nước.
Ngoài ra, do tình trạng Đôla hoá ở Việt Nam khá nặng nên khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gần như là một khu vực kinh tế độc lập tương đối cao không chỉ về các nhân tố đầu vào mà cả ở đầu ra so với 2 khu vực kinh tế còn lại. Độc lập tương đối cả về sản xuất và đồng tiền để thực hiện giá trị hàng hoá ở khu vực này.
Sự không đồng bộ nói trên lại đã diễn ra trong cùng một sân chơi thị trường Việt Nam, nên chắc chắn đã trở thành một nhóm trong những nhóm nhân tố tác động trực tiếp đến chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam”.
Nguyên nhân khách quan là chủ yếu
(TS. Vũ Đình Ánh, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Khoa học Thị trường giá cả, Học viện Tài chính)
“Có hai nguyên nhân chính gây lạm phát cao trong năm 2007.
Thứ nhất, giá cả thế giới biến động mạnh, các mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu chiến lược đều tăng ở mức kỷ lục so với từ trước đến nay. Nguyên nhân này tác động đến mỗi nước theo một cách khác nhau.
Việt Nam là một trong những nước chịu tác động trực tiếp và chịu hậu quả nặng nề nhất. Do độ “mở” của nền kinh tế Việt Nam trong năm nay là rất lớn so với nhiều nền kinh tế khác, nên bị tác động trực tiếp từ những biến động bên ngoài. Trong khi đó, chúng ta chưa có hệ thống “van” điều chỉnh phù hợp với nền tảng kinh tế mở như vậy.
Thông thường, ở những nước có tiềm lực tài chính, tiềm lực kinh tế mạnh, họ sẽ có nguồn dự trữ để trung hòa bớt những tác động trực tiếp hoặc chuyển sang thành tác động gián tiếp. Tích trữ hàng hóa tại thời điểm giá thấp. Sau đó, khi giá thị trường tăng cao thì tiêu dùng bằng quỹ dự trữ.
Với một nền kinh tế nhỏ, việc “mở cửa” là tốt nhưng vấn đề là Việt Nam còn thiếu một hệ thống công cụ điều hành, điều này có thể giải thích tại sao cả thế giới cùng chịu nhưng Việt Nam lại chịu tác động mạnh như vậy.
Nguyên nhân thứ hai, năm nay luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam rất nhiều và khá “bất ngờ”. Hơn nữa, từ trước đến nay chúng ta chỉ quan tâm đến vấn đề kiểm soát luồng vốn ra mà thiếu chú trọng kiểm soát luồng vốn vào.
Vì thế, vấn đề hiện nay là chúng ta phải làm thế nào để kiểm soát được luồng vốn và không để nhân tố này làm mất cân đối cung hàng. Diễn biến giá cả năm nay là chuyện của cân đối tiền hàng, hàng không thiếu, nhưng khi có nguồn cung tiền vào quá lớn thì xảy ra tình trạng mất cân bằng cung cầu.
Vì vậy, rút kinh nghiệm từ năm 2007, sang năm 2008, chúng ta cần phải đón trước được sự vận động của thị trường bên ngoài, của luồng tài chính vào Việt Nam, để có một hệ thống chính sách đặt trên nền tảng kinh tế “mở”.
Việt Nam nên ứng phó với những biến động của thế giới với tư cách một người mua nhỏ và bán nhỏ, dễ chịu tác động của thế giới. Vì vậy, cần thiết phải có những “vật đệm” để ứng phó với những biến động của thế giới, giảm thiểu tác động không tốt bằng những giải pháp hiệu quả. Đây là một bài toán tổng thể.
Về vấn đề tiền tệ, cần xác định khả năng hấp thụ nguồn vốn từ nước ngoài của Việt Nam và kiểm soát được nguồn ngoại tệ vào Việt Nam. Việc hút ngoại tệ vào thành nguồn dự trữ cũng là một giải pháp.
Bài học của Trung Quốc là khi có nguồn dự trữ quá lớn, họ thành lập một công ty chuyên đầu tư vốn ra ngoài. Hoặc cách thứ hai là dùng nguồn dự trữ dư thừa đó để nhập khẩu hàng hóa về, góp phần cân đối tiền và hàng”.
Khủng hoảng cán cân vốn
(GS.TS Kenichi Ohno, Quỹ Phát triển Việt Nam - VDF)
“Hiện tại, Việt Nam có mức lạm phát cao nhất trong các nền kinh tế mới nổi Đông Á. Mặc dù giá dầu thô và các hàng hóa khác cao là một phần của tăng giá, nhưng sự khác nhau về lạm phát giữa Việt Nam và các nước khác không thể giải thích bằng những nhân tố toàn cầu như vậy.
Cũng như vậy, dịch SARS, cúm gia cầm và các bệnh dịch khác đã đẩy giá thực phẩm tăng ở Việt Nam, nhưng các nước láng giềng cũng phải trải qua những khó khăn đó.
Lạm phát hiện tại của Việt Nam là kết quả của 3 yếu tố tác động cùng một lúc: yếu tố chính là áp lực dòng vốn nước ngoài chảy vào quá lớn; tăng trưởng mạnh của đầu tư công cộng và những cú sốc ngoại sinh lớn mà không thể kiểm soát được từ các thị trường hàng hóa toàn cầu và các bệnh dịch động vật.
Mỗi năm, Việt Nam nhận được một lượng vốn từ nước ngoài khá lớn, lên đến hơn 14 tỷ USD, tương đương 24% GDP năm 2006. Với lượng vốn lớn như thế, tất cả các dấu hiệu mang tính vĩ mô của cuộc khủng hoảng cán cân vốn trong giai đoạn đầu có thể nhìn thấy được. Ngày nay, những đất nước rơi vào tình trạng tiếp nhận quá nhiều vốn từ bên ngoài được gọi là “Căn bệnh Việt Nam” hoặc “Căn bệnh Trung Quốc”.
Hiện tại, một số lớn các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đang trải qua bùng nổ kinh tế do dòng chảy ngoại tệ vào cộng thêm với đầu tư mạnh mẽ và lạm phát hàng hóa. Lượng vốn lớn từ bên ngoài đổ vào Việt Nam không phải là nguyên nhân duy nhất. Được hỗ trợ bởi nền kinh tế phát triển mạnh, Chính phủ Việt Nam đã có những kế hoạch lớn để nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia, đây cũng là một nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam.
Một vấn đề nan giải của lạm phát ở Việt Nam là sự thiếu minh bạch của việc định giá cao đồng nội tệ. Vấn đề đặt ra là, nếu Việt Nam đang trong giai đoạn bùng nổ kinh tế do các luồng vốn bên ngoài, tại sao việc định giá cao nội tệ lại không được phát hiện. Câu trả lời ở đây là do sự giảm giá của đồng USD. Đồng Việt Nam đã được nâng giá, nhưng thực tế này đã được “che lấp” bởi sự mất giá của đồng USD.
Bài học hữu ích từ các cuộc khủng hoảng tiền tệ gần đây cho thấy, dòng vốn nước ngoài cần phải được kiểm soát đúng và điều chỉnh nếu cần thiết trong quá trình tự do hóa tài khoản vốn. Đây như một con dao hai lưỡi, nếu có quá nhiều can thiệp và kiểm soát có thể lại tạo thành rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài, và có thể dẫn đến bỏ lỡ các cơ hội thu hút vốn nước ngoài.
Việt Nam nên bắt đầu nghiên cứu về các lựa chọn chính sách cụ thể để có thể bình ổn dòng vốn nước ngoài và kiểm soát những rủi ro dẫn đến khủng hoảng tài khoản vốn mà không phải hi sinh các tiềm năng phát triển của mình”.
Nguồn: TBKT Việt Nam
