Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

FDI 2007: Tiền càng nhiều, tiêu càng khó! (02/01)

06/08/2010 - 63 Lượt xem

FDI: Việt Nam qua mặt Ấn Độ

PV:
Xin ông cho biết đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2007?

Ông Phan Hữu Thắng (PHT): FDI năm 2007 thực sự làm chúng tôi bất ngờ ngoài dự đoán. Còn nhớ năm 2006, khi thu hút FDI vượt ngưỡng 10 tỷ USD, chúng ta đã cho đấy là kết quả rất khả quan, bởi rất khó khăn mới đạt được con số đó. Chính vì thế, chúng tôi chỉ dám đặt mục tiêu thu hút FDI năm 2007 vào khoảng 13 tỷ USD. Không ngờ hết năm nay, vốn FDI thu hút được đã lến đến trên 20 tỷ USD. Quả là một con số đẹp đánh dấu mốc 20 năm Luật đầu tư nước ngoài đi vào cuộc sống.

FDI tăng cao đột biến còn chứng tỏ được vị thế quốc gia. Ai cũng thấy, các nền kinh tế đang nổi là Trung Quốc, tiếp theo là Ấn Độ và giờ là thời điểm của Việt Nam. Theo những thông tin chưa chính thức thì có khả năng thu hút FDI của chúng ta năm sau còn vượt qua cả “điểm nóng”Ấn Độ.

PV: Vì sao Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại tỏ ra bất ngờ khi mà ai cũng dự đoán năm 2007-khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO - các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đổ vào ồ ạt?

PHT: Đúng là vào WTO, thực thi các cam kết mở cửa đã tạo điều kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng thực tế, gia nhập WTO chỉ là động lực mới thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến Việt Nam hơn. Còn theo tôi, nguyên nhân chính thu hút FDI là hệ quả của cả một quá trình thực hiện đường lối đổi mới của chúng ta suốt 20 năm qua, sự phát triển của nền kinh tế cũng như việc mở rộng quan hệ ngoại giao, nâng cao vai trò, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngoài ra, quy định phân cấp quản lý đầu tư về cho các địa phương cũng đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhanh chóng vào Việt Nam hơn. Nhờ có quyền chủ động nên nhiều tỉnh nỗ lực thu hút FDI điển hình như Hà Tây, Vĩnh Phúc…

PV: Với con số thu hút tăng gấp đôi năm ngoái, chắc hẳn năm 2007 là năm “được mùa” những dự án “cỡ bự”, thưa ông?

PHT: Hiện tôi không thống kê cụ thể được, nhưng những dự án từ 500 triệu USD trở lên chiếm khá nhiều, còn các dự án tiền tỷ cỡ như Intel không còn là hiếm.

Ngoài FDI, còn phải nhắc đến việc dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng tăng cao đột biến. Vì năm 2007 là năm đầu tiên các nhà đầu tư ngoại có thể mua lại cổ phần, cố phiếu, sáp nhập, giải thể… theo luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư nước ngoài mới được thực hiện từ 1/7/2006. Nguồn vốn đó trong thời gian tới dự báo sẽ còn tăng mạnh và tăng nhiều.

Vốn FDI 2007 qua những con số:

Vốn thu hút: 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006 và vượt 53% kế hoạch cả năm, cao nhất trong vòng 20 năm (1988-2007)

Vốn thực hiện: 4,5 tỷ USD

Vốn đăng ký vào công nghiệp: 9 tỷ USD, chiếm 50% tổng vốn đăng ký Địa phương thu hút vốn FDI nhiều nhất: Đồng Nai (2,6 tỷ USD), Tp HCM (2,59 tỷ USD), Hà Nội (2,2 tỷ USD)

Nước và vũng lãnh thổ đăng ký đầu tư nhiều nhất: Hàn Quốc, Singapore, Virgin (Anh)


 

PV: Cụ thể, năm 2007 ta đã thu hút được bao nhiêu vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp và ông nhận định thế nào về xu hướng các nhà đầu tư ngoại đổ xô vào những lĩnh vực sinh lợi nhanh nhưng ngắn hạn như chứng khoán?

PHT: Tôi không nắm được con số cụ thể vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp vì dòng vốn này do Uỷ ban Chứng khoán nhà nước quản lý. Tuy nhiên, tôi cho rằng việc gia tăng mạnh vốn ngoại vào các lĩnh vực sinh lời nhanh, ngắn hạn cũng là xu hướng bình thường trong kinh tế thị trường và càng làm cho môi trường đầu tư thêm sôi động.

PV: Quay trở lại với FDI, rõ ràng 20,3 tỷ USD là con số thành công nhưng chất lượng của dòng vốn thì sao thưa ông?

PHT: Dòng vốn FDI vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng nhưng đang có xu hướng chuyển từ lượng sang chất. Biểu hiện của việc chuyển sang chất được thể hiện ở chỗ các dự án lao động giản đơn như dệt may, da giày… không có mấy mà chuyển dịch sang các dự án có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao hơn. Năm 2007 đã cấp phép cho nhiều dự án nghiêng về công nghệ cao và các lĩnh vực then chốt như điện, điện tử, linh kiện, các dự án IT, máy tính xách tay…

FDI trong lĩnh vực dịch vụ cũng có nhiều khởi sắc do ta mở rộng các điều kiện đầu tư theo những cam kết hội nhập. Và trong lĩnh vực này, “chất” cũng được biểu hiện bằng việc có nhiều tổ hợp bất động sản lớn ra đời, những khu văn phòng, khách sạn chất lượng 5 sao đang tăng lên nhanh chóng, trong đó có nhiều dự án có chất lượng công nghệ cao như tổ hợp bất động sản Kangnam…

Vốn cao nhưng giải ngân khiêm tốn

PV: Vốn FDI kéo về rất cao 20,3 tỷ USD nhưng vốn thực hiện được lại rất khiêm tốn chỉ 4,5 tỷ USD. Ông có biết vì sao thu hút nhiều lên nhưng tỷ lệ giải ngân lại ngày càng thấp đi?

PHT: Không thấp đi đâu, số vốn thực hiện vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối chứ. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận là tỷ lệ giải ngân trên số vốn đăng ký thấp đi so với các năm trước. Nguyên do là số lượng cũng như số vốn các dự án đăng ký mới tăng quá lớn. Nếu trước đây, các dự án chỉ vài chục triệu USD, cao nhất đến vài trăm triệu USD nên việc giải ngân nhanh chóng hơn. Còn giờ hàng trăm đến hàng tỷ USD rõ ràng không chỉ chúng ta mà chính các nhà đầu tư cũng cần thời gian giải ngân kéo dài hơn.

PV: Nói như ông thì tỷ lệ giải ngân thấp như vậy là chưa đáng lo ngại?

PHT: Không, nguyên nhân là thế nhưng nhiệm vụ trọng tâm những năm tới vẫn là đẩy mạnh tốc độ giải ngân để tăng con số tuyệt đối lẫn tỷ trọng trên vốn đăng ký lên. Đầu tư ồ ạt mà giải ngân không tốt sẽ gây trở ngại cho nhà đầu tư. Dĩ nhiên, Chính phủ sẽ cố gắng nhưng nhanh hay không còn phụ thuộc vào phía các nhà đầu tư nữa chứ. Nên có cái nhìn tổng thể về vấn đề này.

PV: Dù sao, xét về hiệu quả thực tế đem lại cho nền kinh tế năm 2007, chúng tôi nghĩ ta nên nói lại cho đúng là: thực hiện được 4,5 tỷ USD vốn FDI hơn là cứ vui mừng thu hút 20 tỷ USD…

PHT: Phải vui mừng chứ vì tuy mới là vốn đăng ký nhưng rõ ràng 20 tỷ USD là một điều cho thấy vị thế, môi trường đầu tư Việt Nam đã và đang tốt lên, tạo tiền đề thu hút mạnh hơn vốn FDI các năm tiếp theo. Mặt khác, vốn đăng ký lớn là “thông số” quan trọng để Chính phủ thấy được khả năng của ta mà lập kế hoạch chuẩn bị và đẩy mạnh hạ tầng cơ sở, đáp ứng nhu cầu đầu tư.

Hạ tầng: Kẹt cả “cứng lẫn mềm”

PV: Chúng ta vừa nhắc đến hạ tầng. Là Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài, năm 2007, chắc hẳn ông đã nghe các nhà đầu tư liên tục “báo động” về “nút cố chai hạ tầng”?

PHT: Cơ sở hạ tầng đúng là “vấn đề nóng” hiện nay. Đó là nguyên nhân lớn khiến ta thu hút nhiều vốn FDI mà không giải ngân kịp.

PV: Trong số các “nút cố chai”, vấn đề gì đáng phàn nàn nhiều nhất ?

PHT: Điện. Đây là vấn đề nóng nhất, khiến nhiều nhà đầu tư đau đầu. Thứ hai là tốc độ giải phóng mặt bằng cho nhà đầu tư. Tuy chúng ta đã cải thiện nhưng tốc độ vẫn còn chậm so với nhu cầu, đặc biệt là các dự án có quy mô lớn.

PV: Vậy theo ông đã có hiện tượng thiếu đất cho dự án đầu tư chưa?

PHT: Có rồi, một số địa phương lớn, có mật độ thu hút nhiều FDI như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội… đã khá là kẹt khi tìm mặt bằng.

PV: Không chỉ hạ tầng “cứng”, năm 2007 cũng là năm hạ tầng mềm - nhân lực bị kêu ca rất nhiều, từ lao động phổ thông đến trung và cao cấp…

PHT: Đúng vậy, năm nay các dự án đổ vào nhiều nên càng thiếu từ lao động có tay nghề đến cán bộ quản lý và kỹ thuật có trình độ. Các nước khác thì có sẵn rồi nhưng tại Việt Nam, các nhà đầu tư đang phải chủ động tuyển và tự đào tạo. Lý do là tuy ta có nguồn nhân công dồi dào nhưng phần nhiều chưa qua đào tạo. Hơn nữa các dự án đầu tư không dàn đều cả nước mà lại tập trung ở một vài khu vực nhất định, những nơi đã và đang nóng về nhân lực như Tp HCM, Đồng Nai, Bình Dương… nên tình hình đã “nóng” lại càng “nóng” hơn.

PV: Việc bị kẹt cả hạ tầng “cứng” lẫn “mềm” phải chăng do tầm nhìn vĩ mô của ta đã không “tới” nên khi vốn đầu tư tăng mạnh mới bất ngờ, lúng túng?

PHT: Không phải là tầm nhìn không tới mà là năng lực của chúng ta hạn chế. Chúng ta là con nhà nghèo tuy biết trước phải làm gì nhưng không có đủ vốn và năng lực để thực hiện. Thứ hai là các dự án cơ sở hạ tầng lẫn đào tạo nhân lực đều đòi hỏi nhiều thời gian để hoàn thành. Bởi thế dù những năm qua chúng ta đã chuẩn bị nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ và kịp nhu cầu đầu tư.

Vì vậy, cả hai vấn đề này đều được Chính phủ đặt ra là hai nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách nhất trong thời gian tới. Ngoài nguồn vốn Nhà nước và ODA, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách liên quan để huy động mọi nguồn lực, mở ra các kênh thu hút nguồn vốn tư nhân và nước ngoài vào cơ sở hạ tầng. Điển hình là Nghị định 78 quy định các điều kiện đầu tư theo hình thức BTO, BOT rồi BT.. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành danh mục các dự án cơ sỏ hạ tầng trọng yếu từ nay đến 2020 để tháo gỡ dần các nút cổ chai đó.

Về lao động, Chính phủ đã có chương trình hành động về nhân lực, trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng sẽ tham gia phối hợp chặt chẽ với các Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng như các địa phương để giải quyết vấn đề này.
Nguồn: Vietnamnet